Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2012

Dạy và học Lịch Sử ở trường phổ thông Việt Nam!



Báo chí đưa tin "Hội thảo khoa học quốc gia về dạy và học Lịch sử ở trường phổ thông Việt Nam" vừa được Bộ Giáo Dục-Đào Tạo và Hội Khoa học Lịch Sử Việt Nam phối hợp tổ chức trong 2 ngày 18-19.8 tại Đà Nẵng, trước thực trạng dạy và học môn Sử đáng báo động ở các trường phổ thông trung học lâu nay: Học sinh không thích học môn Sử, môn Sử bị coi thường nhất trong các môn, chất lượng giáo viên dạy Sử còn kém, từ kết quả kiểm tra cho đến kết quả thi tốt nghiệp phổ thông, thi vào đại học môn Sử của học sinh nhìn chung rất thấp…
Còn nhớ, trong kỳ thi tuyển sinh Đại học năm 2011, hàng loạt bài báo phản ánh về kết quả thấp tệ hại của môn Sử, trong đó có hàng ngàn thí sinh bị điểm O. Thế nhưng, khi báo chí phỏng vấn, ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận lại trả lời: “Hàng ngàn điểm O môn Sử là bình thường”. Rằng:“Điểm Lịch sử thấp là vấn đề của thời đại. Các bạn hãy nhìn rộng ra nhiều nước, không chỉ ở Việt Nam có hiện tượng ấy…” Và khi phóng viên hỏi về hướng thay đổi cụ thể việc dạy và học môn Sử trong trường phổ thông thì ông Bộ trưởng chỉ trả lời mơ hồ: “Thay đổi như thế nào thì còn phải bàn”…(“Bộ trưởng GD-ĐT Phạm Vũ Luận: “Điểm Sử thấp là vấn đề của thời đại”, báo Dân trí).
Qua câu trả lời này, ông Bộ trưởng đã cho thấy mặc dù là người đứng đầu và chịu trách nhiệm cao nhất của ngành giáo dục, nhưng ông hoàn toàn vô cảm, vô trách nhiệm trước một kết quả tệ hại như vậy của học sinh trên toàn quốc qua một kỳ thi quan trọng nhất đối với các em. Thứ hai, ông đã chủ quan, ngụy biện khi cho rằng “điểm Sử thấp là vấn đề của thời đại”.
Là một người đã từng trải qua bao nhiêu năm học phổ thông rồi đại học dưới mái trường xã hội chủ nghĩa ở VN, rồi lại là phụ huynh học sinh có con em học trung học phổ thông ở VN, sau đó học tiếp bậc phổ thông trung học ở nước ngoài (Na Uy), cũng như có bạn bè, họ hàng, người thân có con cái đi học ở các nước khác từ Mỹ, Anh, Úc, Canada cho đến Đức, Pháp…tôi xin nói thẳng, tình trạng học sinh chán học Sử, môn Sử qua các kỳ thi thường đạt kết quả thấp không phải là hiện tượng chung ở nhiều quốc gia như ông Bộ trưởng nghĩ.
Cũng may, không phải ai cũng nghĩ như ông Bộ trưởng. “GS-TSKH Vũ Minh Giang (ĐHQG Hà Nội) kể: "Cách đây ít năm, khi có dịp tiếp xúc với một nhóm HS phổ thông nước ngoài, tôi có thử hỏi trong các môn học, các em thích môn nào nhất? Thật bất ngờ không chỉ cho tôi mà cả một số nhà học học tự nhiên cùng có mặt ở đó khi có tới 7/10 em trả lời đó là môn LS. Tôi hỏi tiếp vì sao các em thích học môn LS thì các em đều trả lời khá giống nhau là thầy dạy hay, có nhiều chuyện rất hấp dẫn, thường được học ngoại khoá ở các bảo tàng, xem phim LS. Có em còn nói thích học LS vì hiểu biết sâu về LS được các bạn coi là người uyên bác, có trí tuệ!” (“Vì sạo Lịch sử là môn học bị coi thường nhất? (phần 1)”, trang Info.net.)
Hoặc chỉ cần so sánh với chương trình, sách giáo khoa, chất lượng dạy và học môn Sử ở miền Nam trước năm 1975 thôi cũng rất khác. Những ai đã từng đi học thời trung học ở miền Nam trước năm 1975 có thể chứng minh điều này. Trong bài “Vì sao học sinh không thích Sử?", báo Tiền Phong, cũng có một chi tiết sau:
“Kể về một ký ức tuổi học trò, cô giáo Trần Thị Lệ Thủy đến từ trường THPT Nguyễn Du, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng nhắc đến cuốn “Những vì sao đất nước” được xuất bản ở miền Nam trước năm 1975.
“Hồi đó mới giải phóng, tôi còn là học sinh cấp II nhưng cảm hứng yêu thích lịch sử dân tộc đã đến với tôi từ các nhân vật Trần Quốc Tuấn, Yết Kiêu, Dã Tượng... được kể trong cuốn sách ấy. Đó cũng là nguyên cớ dẫn dắt tôi trở thành giáo viên dạy lịch sử”, cô Thủy nói.
Như vậy, vấn đề là ở nội dung chương trình, bài soạn trong các sách giáo khoa, phương pháp dạy và học, thậm chí ngay từ quan niệm dạy và học môn Sử, cách đánh giá vai trò của môn Sử trong trường phổ thông cho đến chất lượng giáo viên…đã dẫn đến việc các em học sinh không hứng thú, thậm chí chán ghét môn này, học không vào và khi đi thi thì kết quả thường bị thấp.
Qua những bài viết trên báo phản ánh phần nào nội dung cuộc hội thảo, tôi tin rằng đã có nhiều ý kiến tâm huyết, xác đáng của các chuyên gia, các nhà sử học, các giáo viên dạy Sử và những ai quan tâm đến vấn đề dạy và học môn Sử trong nhà trường phổ thông ở VN.
Nhưng không rõ mọi người đã có thể hoặc dám nói đúng đến tận gốc rễ của vấn đề hay chưa, đó là dạy môn Sử mà nặng tính chính trị, tính đảng, dạy với mục đích tuyên truyền, định hướng chính trị quá rõ như vậy thì học sinh không chán mới là lạ. Chương trình học nặng nề khô cứng, nói là sử VN nhưng hết hai phần ba là học về lịch sử đảng cộng sản từ lúc bắt đầu thành lập, đặc biệt là “hai cuộc kháng chiến vĩ đại, chiến tranh thần thánh” chống Pháp chống Mỹ … Chương trình ở cả bậc trung học cơ sở (cấp 2) lẫn trung học phổ thông (cấp 3) đều chú trọng phần này. Làm như lịch sử hơn 4000 năm của đất nước, dân tộc VN chỉ từ khi có đảng cộng sản mới là quan trọng, đáng học!
Những ý kiến tham dự hội thảo trích dẫn trên báo chí cũng chỉ ra việc các bài soạn thường nặng về sự kiện, các con số khô khan, mà thiếu vắng yếu tố con người, thiếu những câu chuyện hấp dẫn, khiến các em khó nhớ. Rốt cuộc, cả một năm học chỉ để đối phó cho mấy kỳ thi, sau đó là quên hết, chữ thầy lại trả cho thầy.
Đó là chưa kể, rất nhiều dữ kiện lịch sử của cả VN và thế giới đã bị bóp méo, diễn dịch sai sự thật hoặc che dấu, bỏ qua không đề cập, để phù hợp với quan điểm chính trị của đảng và nhà nước. Sách giáo khoa môn Sử bị lạc hậu, cập nhật thông tin còn chậm so với diễn biến lịch sử đang diễn ra trên đất nước và thế giới từ sau năm 1975 đến nay.
Vấn đề rất đơn giản: làm thế nào môn lịch sử dám nói đúng nói thật khi toàn bộ lịch sử đảng cộng sản VN, lịch sử đất nước từ khi có đảng cộng sản, là sự dối trá?
Một khi đảng cộng sản còn nắm quyền, thì môn lịch sử đừng hy vọng có thể nói đúng sự thật, và khi đã không đúng sự thật, không có tính khách quan vốn là giá trị lớn nhất của môn Sử, của ngành Sử học, thì làm sao mà dạy cho hay được.
Không chỉ môn Sử mà các môn khoa học xã hội nhân văn khác như Văn, Địa, Giáo dục công dân…ở bậc trung học, học sinh thường không cảm thấy hứng thú. Vì những môn này đều nặng tính chính trị, cách dạy và học thì lạc hậu.
Trong khi đó ở các nước, môn Sử hay những môn khoa học xã hội khác lại được học sinh rất thích. Ví dụ như trong chương trình IB (the iInternational Baccalaureate) mà con gái tôi học ở Na Uy, môn Sử được dạy một cách khách quan, toàn bộ tất cả những gì diễn ra trong lịch sử thế giới, với cái nhìn đa chiều. Học sinh được tự do tranh luận mọi vấn đề gai góc của lịch sử nước mình và trên thế giới, không có cái gì là cấm kỵ, nhạy cảm. Từ chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần thứ hai, nước Đức dưới thời phát xít Hitle, thời kỳ chiến tranh lạnh, Liên Xô và sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa cũ khối Đông Âu, lịch sử nước Trung Quốc dưới thời lãnh đạo của đảng cộng sản, cuộc nội chiến Yugolasvia-Nam Tư v.v…
Sách giáo khoa được cập nhật khá nhanh chóng so với thực tế. Những sự kiện diễn ra trên thế giới cách đây vài năm đều được đưa vào chương trình, không có gì phải tránh né. Chương trình chú trọng cách học để hiểu, chứ không phải nhồi nhét cốt phải nhớ.
Có một thực tế từ nhiều năm nay trong các nhà trường phổ thông trung học tại VN, những môn khoa học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa, Sinh…dường như được coi trọng hơn, chương trình học khá là nặng nếu so với chương trình phổ thông trung học ở một số quốc gia về các môn này, trong khi đó các môn khoa học xã hội như Sử, Địa lại bị coi thường. Môn Văn không bị coi thường vì là một trong các môn chính nhưng khi chọn phân ban ở lớp 10, số lượng học sinh chọn ban C là ban Văn, Sử, Địa ít hơn hẳn các ban A, B, D, dù nhiều trường đã cố tìm cách này cách khác để khuyến khích các em chọn ban C.
Khi lên đại học, những ngành Văn, Sử, Địa nói riêng và khoa học xã hội nói chung cũng có tỷ lệ thí sinh ít hơn những ngành khác, chất lượng đầu vào của một số trường vì vậy cũng thấp hơn vì phải vớt cho đủ số lượng. (Những hình ảnh lãng mạn về những giáo sư Văn Khoa, Giáo sư Triết…chẳng hạn, chắc chỉ có trong sách vở và xã hội miền Nam trước 1975!). Các bậc phụ huynh và ngay chính các em học sinh, sinh viên ở VN bây giờ chỉ muốn chọn những ngành dễ kiếm việc, lương cao như Y, Dược, Kỹ sư, Kinh tế, Tài chính…Điều đó dẫn đến sự mất cân đối về ngành nghề trong xã hội.
Mặt khác, tình trạng đạo đức xã hội bị xuống cấp, con người ngày càng trở nên “xấu xí” hơn, tội ác ngày càng gia tăng về số lượng, mức độ tàn bạo, dã man…một phần có lẽ cũng từ việc coi thường những môn khoa học xã hội trong nhà trường và trong xã hội mà nhiều nhà báo, nhà giáo, nhà xã hội học, tâm lý học…đã lên tiếng cảnh báo từ lâu. Bởi những môn khoa học xã hội mới chính là những môn giáo dục nhiều cho tâm hồn học sinh và ảnh hưởng đến con người, nhân cách, suy nghĩ… của các em sau này.
Trở lại với việc dạy và học môn Sử ở bậc phổ thông trung học, tôi cho rằng bao nhiêu cuộc hội thảo rồi cũng sẽ không đem lại được kết quả bao nhiêu khi nguyên nhân vì sao môn Sử bị coi thường, học sinh không thích học Sử thì có lẽ nhiều người đã nói rồi, nhưng khi nào còn phải dạy và học trong một chế độ độc tài như hiện nay thì chẳng thể thay đổi tận gốc từ quan điểm, triết lý giáo dục, phương pháp dạy và học, nội dung chương trình v.v…được!
Song Chi.

Thứ Ba, 21 tháng 8, 2012

Có nên bỏ khẩu hiệu “tiên học lễ , hậu học văn”?


Gần đây có ý kiến cho rằng nên bỏ khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” trong các trường học. Vậy ý kiến của những người quan tâm về vấn đề này thế nào?

File photo
Khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” được làm bằng hoa ở Hà Nội, ảnh chụp trước đây.

Không mới nhưng sẽ không cũ

Nho giáo có những ảnh hưởng nhất định đến Việt Nam từ xưa đến nay. Không thể phủ nhận những hiệu quả tích cực từ học thuyết của đạo Khổng đến nhiều thế hệ người Việt trong mấy ngàn năm qua. Đồng thời, qua từng thời kỳ và từng giai đoạn phát triển văn minh của xã hội, cũng có nhiều phản kháng chống đối lại những áp đặt giáo điều mà xã hội cho là quá cổ hủ, lạc hậu và cứng nhắc. Điển hình trường hợp mới nhất, dư luận đang tranh cãi xem có nên bỏ câu “tiên học lễ hậu học văn” hay không vì nhiều lý do không còn phù hợp với xã hội Việt Nam trong thời điểm hiện nay.

Câu khẩu hiệu này không mới nhưng cũng không bao giờ cũ. Vì người ta nói “có tài mà không có đức thì không làm được gì”.
TS Lê Nguyễn Quốc Khang
Cốt lõi ý nghĩa của câu khẩu hiệu treo ở các trường tiểu học và trung học được hiểu là giáo dục đạo đức phẩm chất cần được chú trọng trên hết, rồi mới đến giáo dục tri thức tự nhiên và xã hội cho học sinh. Tiến sĩ Lê Nguyễn Quốc Khang, thuộc thế hệ 7X là thế hệ đầu tiên cắp sách đến trường sau thời kỳ chiến tranh năm 1975, hiện đang công tác trong lãnh vực giáo dục chia sẻ rằng câu khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” được nhận thức là theo phương châm giáo dục của người xưa thì trước tiên phải học “lễ” là học lễ nghĩa, học cách làm người; còn “văn” là học chữ. Đơn giản là trước hết học làm người rồi mới học chữ, phải song song với nhau như vậy. Và theo ý riêng của mình, tiến sĩ này sẽ tiếp tục dạy dỗ con cái trong gia đình theo khái niệm mà ông đã ghi nhận và tiếp thu. Ông Lê Nguyễn Quốc Khang lý giải:
“Tại vì câu khẩu hiệu này không mới nhưng cũng không bao giờ cũ. Vì người ta nói “có tài mà không có đức thì không làm được gì” mang ý nghĩa như thế. Thật sự bây giờ người ta hay nói và nghĩ từ học “lễ” mang ý nghĩa “lễ nghĩa” kiểu như là tiền bạc này nọ… thì không đúng. Lễ nghĩa là chuyện giao tiếp, văn hóa của con người chứ không phải chuyện “lễ nghĩa” là đi học thì phải đưa tiền cho cô, quà cáp này nọ là sai. Phải dạy cho con hiểu “lễ” là văn hóa, là cách đối xử giữa con người chứ không phải là chuyện vật chất.”
imageutgfo250.jpg
Một giờ học tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội hôm 26/04/2010. RFA PHOTO.
Có rất nhiều lý luận cho rằng trong xã hội Việt Nam ngày nay, chữ “lễ” được hiểu như là một kiểu lễ nghĩa trong bất kỳ mối quan hệ xã hội nào cũng cần phải có. Đây là kiểu lễ nghĩa mà người ta gọi là thủ tục “đầu tiên”. Trong văn hóa chơi chữ nói láy của người Việt thì “đầu tiên” là “tiền đâu”. Do đó, “tiên học lễ” hiển nhiên được hiểu là “đáp lễ” để thể hiện sự biết ơn trong mọi hình thái hoạt động của xã hội, gây ra những tiêu cực như tham nhũng, đặc quyền đặc lợi, và nhiều hệ lụy khác. Cũng có ý kiến cho rằng theo Khổng giáo thì phải phục tùng tuyệt đối người trên. Chữ “lễ” cũng mang ý nghĩa này và rõ ràng đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa. Một thời đại mà giới trẻ đầy năng động và sáng tạo thì không thể “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó” và càng không thể nhất cử nhất động phải vâng lời một cách tuyệt đối với ông bà, cha mẹ, thầy cô, cấp lãnh đạo của mình…Vì vậy, câu khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” cần phải chấm dứt và bỏ đi. Tuy nhiên, phần lớn công luận lại ủng hộ câu khẩu hiệu này. Họ cho rằng với tính chất “rượu cũ bình mới” vẫn luôn phù hợp trong mọi thời đại. Người Việt bao giờ cũng coi trọng “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Là người lớn, là người trên sẽ không áp đặt lên người trẻ, người nhỏ theo quan điểm giáo điều nhưng giới trẻ phải lễ phép, tôn trọng và cư xử một cách có chừng mực đối với thế hệ đi trước mình.
Trong cuộc trao đổi với đài RFA xung quanh tranh luận này, Tiến sĩ Nguyễn Nhã, đưa ra nhận định chữ “lễ” bao giờ cũng phải được coi trọng thì xã hội mới có trật tự. Theo nghiên cứu của mình, Tiến sĩ Nguyễn Nhã cho rằng Việt Nam trong thời buổi hòa nhập với cộng đồng thế giới thì Việt Nam cần học hỏi quốc gia có nền văn hóa tương đồng như Nhật-một quốc gia đặt chữ “tín” làm đầu. Tiến sĩ Nguyễn Nhã nói:

Thật ra dùng từ thuần Việt đó là ước mong. Thế nhưng mà bất cứ quốc gia nào từ Anh, đến Mỹ, đến Pháp… đều cũng có sự vay mượn.
TS Nguyễn Nhã
“Theo tôi bất cứ một nơi nào cũng phải coi trọng chữ “lễ”. Như tôi đã nói ở mỗi một xã hội, ở mỗi một thời điểm thì sẽ có yêu cầu ưu tiên nào quan trọng nhất. Theo tôi chữ “lễ” hiện nay vẫn có thể rất cần nhưng chữ “tín” thì cần hơn. Nếu “tiên học lễ, hậu học văn” thì nên nói “tiên học tín, hậu học văn”. Theo tôi như vậy thì rất hợp với thời đại hiện nay ở Việt Nam.”
Theo nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Nhã thì tùy theo cách diễn giải sẽ được hiểu trong “văn” bao hàm luôn “lễ”. Một người có “văn” thì đã có “lễ” rồi. Tuy vậy, đây là lúc mọi người cần phải giữ chữ tín thì mới đối xử tử tế với nhau được. Và chữ “tín” được đặt lên quan trọng hàng đầu sẽ đóng vai trò mấu chốt trong sự phát triển của một xã hội văn minh.

Có vay mượn ngôn ngữ?

Nhà nghiên cứu phê bình văn học Lại Nguyên Ân tham luận trên diễn đàn của Vietnamnet cho rằng khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” cần phải chấm dứt. Một trong những nguyên nhân chính yếu mà nhà nghiên cứu phê bình văn học nêu lên là do sự vay mượn ngôn ngữ, sử dụng ngôn từ Hán Việt, không thuần Việt”. Trong khi đó, Tiến sĩ Nguyễn Nhã lại cho rằng:

MG_1993-250.jpg
Một trường Tiểu học Dân lập của người Việt gốc Hoa ở khu Chợ Lớn, Quận 5, TPHCM, ảnh chụp hôm 14/07/2011. RFA PHOTO.
“Thật ra dùng từ thuần Việt đó là ước mong. Thế nhưng mà bất cứ quốc gia nào từ Anh, đến Mỹ, đến Pháp… đều cũng có sự vay mượn. Vay mượn thế nào để cuối cùng trở thành ngôn ngữ của mỗi nước thì đó là vấn đề cần quan tâm. Cho nên tôi vẫn nghĩ mình sẽ sử dụng một số từ của Hán-Việt, từ tiếng pháp, từ tiếng Anh đã “Việt hóa” đi rồi thì vẫn được như thường.”
Bên cạnh ý kiến của ông Lại Nguyên Ân là nên tham khảo những khẩu hiệu thay thế có nguồn quy mô của thế giới như tổ chức UNESCO, có những ý kiến cho rằng cần nổ lực làm trong sáng văn hóa và ngôn ngữ Việt, nhiều câu khẩu hiệu thuần Việt được gợi ý như “có chí thì nên”, “học tốt văn hóa-ứng xử văn minh, “tôn trọng mình và tôn trọng người khác”…Đồng thời cũng có ý kiến cho rằng mỗi ngôi trường tùy vào tính chất của địa phương cùng với bản sắc riêng của trường mình mà chọn ra câu khẩu hiệu đặc trưng của mỗi ngôi trường.
Tranh luận của công chúng vẫn còn đang tiếp diễn và chưa có hồi kết. Bộ Giáo Dục cũng chưa lên tiếng về tranh luận này. Dù câu khẩu hiệu “tiên học lễ hậu học văn” không còn treo ở các ngôi trường thì những bậc phụ huynh như tiến sĩ Lê Nguyễn Quốc Khang cùng với bạn bè đồng trang lứa vẫn dạy dỗ con mình như thế. Và chắc chắn một điều không bao giờ sai là bất kỳ câu khẩu hiệu hay điều dạy dỗ nào muốn con trẻ hấp thụ thì chúng phải nhìn thấy qua biểu hiện và kinh nghiệm sống ở những người xung quanh trong gia đình lẫn ngoài xã hội.
Nguồn RFA

Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2012


NÓI VỚI CÁC EM

(Thân mến gởi các em sinh viên học sinh yêu nước Việt Nam, những người đã, đang và sẽ can trường đứng lên chung lòng đòi lại quê hương.....đất nước)

Em thấy dân mình có đúng không ?
Khi quân Trung quốc lấn non sông
Xuôi tay, dân đứng im, nhìn giặc
Chiếm đất quê hương chẳng động lòng ??


Em thấy dân mình nghịch lý không ?
Khi em, tuổi trẻ giống Tiên Rồng
Thấy quê bị mất trong tay giặc
Tim cháy bừng lên đuốc lửa hồng


Đuốc lửa công bình, đuốc lửa thiêng
Lửa yêu tổ quốc, lửa trung kiên
Nhen từ bất khuất lòng dân tộc
Đòi lại Hoàng Sa,Trường Sa đất chủ quyền !


Đáng lẽ đảng ta phải rất mừng
Mừng dân can đảm chống tàn hung
Mừng người tuổi trẻ vì yêu nước
Bảo vệ biên thùy, giữ núi sông


Nhưng chẳng mừng vui, ta lại còn
Bạo tàn chà đạp tấm lòng son
Không cho những trái tim công chính
Tỏ khối tình yêu với nước non ...


Em, chủ tương lai đất nước nhà
Lẽ nào máu thịt của Ông Cha
Người đem đổi chác mưu danh lợi
Mà chịu khoanh tay, nuốt nhục à ???


Hùng sử, em ơi hãy viết lên
Những trang sử đẹp của ba miền
Bởi đây là lúc xoay thời thế
Cứu giúp dân đen, diệt bạo quyền


Em ạ, ai kia phản núi sông
Thì em, tuổi trẻ, hãy chung lòng
Vùng lên, cứu nước, trừ gian ...đó
Kẻo hổ nghìn sau giống Lạc Hồng !!!



Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012


SỨC MẠNH TÔN GIÁO
VỚI LƯƠNG TÂM NGHỀ NGHIỆP

Tiếng lương tâm vốn là lời cảnh báo cũng như khuyến khích trước mỗi hành động của con người lương tri. Cũng như ý nghĩa của tôn giáo, là một cảm thức thần thiêng giữa con người và thần linh, Vị thần linh đó được cảm nhận do chủ quan của mỗi người, mỗi gia đình hay của một tập thể. Nhưng cách chung, ai ai cũng có cái cảm thức thần thiêng đó, nên sách nói rằng “con người là con vật có tôn giáo”. Không ai là “vô thần” cả, chẳng qua là vì họ tự tách bỏ cái cảm thức đó hay cố che đậy một bản năng mà mình không thể che đậy. Ở đây, tôi không muốn bàn luận sâu về cách nhìn nhận tôn giáo như khoa triết học đã bao đời mổ xẻ, bỏ qua luôn cái tư tưởng tôn giáo mỵ dân hay là chính sách của giới cầm quyền hòng che đậy mưu đồ thống trị đàn áp…Tôi muốn đề cập đến lương tâm con người và sức mạnh của tôn giáo ảnh hưởng trực tiếp trên nó.
Nhân chi sơ, tính bổn thiện. Những lệch lạc trong suy nghĩ hay hành động chỉ là hậu quả của một chương trình giáo dục, xã hội, cộng đoàn và những khuynh hướng cá nhân. Nếu được sống trong những môi trường lành mạnh thì những khuynh hướng cũng hài hoà trong môi trường đó và lương tâm cũng theo chiều giáo dục như làm lành- tránh ác, chân thật-thân thiện. Còn nếu trong một môi trường âm u của lừa lọc, tệ nạn, gian dối thì trước sau gì cũng ảnh hưởng ngay tới con người sống nơi đó. Rồi ngay cả cái lương tâm chân chính cũng bị lèo lái, lý luận cho hợp với quan điểm lệch lạc của họ luôn. Nhưng lương tâm là luật thiên nhiên, cho dù ai đó gắng công làm sai lệch tiếng nói lương tâm thì lương tâm chân chính vẫn còn đó và sáng tỏ mãi mãi.
Trong cuộc sống, trong mọi công việc ngành nghề …đều có sự đòi hỏi nghiêm khắc của lương tâm. Theo tôi, ngành Y lại đòi hỏi cao hơn hết và biến thành cái ĐỨC của người hành y.
Cái đức ấy phải là giọt máu xâm chiếm và chi phối từng việc làm, từng suy nghĩ của thầy thuốc. Họ nắm trong tay sinh mạng con người. Họ tạo được niềm hạnh phúc và cũng có thể gây đau khổ. Họ có thể làm cho sống và cũng có thể làm cho chết. Họ tặng lại cho tha nhân sức khoẻ và lạc quan, nhưng cũng có thể cướp đi sự bình an mà đáng lẽ tha nhân phải được đón nhận . Tất cả tuỳ thuộc vào cái lương tâm nghề nghiệp, lương tâm con người, lương tâm tôn giáo. Dĩ nhiên họ không phải là tất cả của sự hoàn mỹ, nhưng tác động của Y Đức có thể biến đổi cuộc sống nhân sinh nên tươi đẹp hơn.
Tôi đã được sinh ra, lớn lên và giáo dục trong môi trường Kitô giáo. Có thể những ý tưởng của tôi cũng ảnh hưởng không ít bởi giáo thuyết tôn giáo ấy. Vì thế trong mỗi công việc, mỗi suy tư, mỗi tính toán đều có sự can thiệp của lương tâm từ cảm thức thần thiêng. Cảm thức đó không tuỳ thuộc vào những văn bản kinh nguyện hay sự mê tín phù phiếm. Nó là sự sống động của niềm tin vào Đấng Tuyệt Đối điều hành mọi sự vô hình - hữu hình trong toàn vũ trụ.
Trong Kitô giáo có hạn từ “ân sủng”, nghĩa là mọi khả năng của Nhân Trí Thế Dũng Chân Thiện Mỹ…đều là những món quà từ “không” tặng ban cho mỗi người. Mỗi người được thụ cảm khác nhau và theo cách khác nhau nhưng tất cả đều tốt đẹp. Cho dù có những con người không thoả mãn với những gì mình đã nhận được, chính sự vượt lên tạo cho mình một sự hoàn hảo hơn thì đó là sức mạnh của ân sủng (grace).
Các nhà khoa học không ngừng khám phá những bí ẩn của thiên nhiên, của tiểu vũ trụ con người và họ cũng nghiệm ra một điều : tất cả đều đã được sắp sẵn theo một trật tự nào đó và có sự điều hành bí ẩn ngay sau những trật tự đó. Cái khám phá đó là ân sủng, lý giải những tác động của thiên nhiên, mà chủ hữu của thiên nhiên là Thượng Đế (theo kiểu nói và tên gọi của con người cho Vị Thần ấy).
Quan niệm Đông cũng như Tây phương coi Y là một Đạo, “ Đạo Y”. Đạo là con đường, dẫn con người tìm gặp được sự bình an, hạnh phúc. Linh mục có thánh đường để quy tụ và hướng dẫn giáo dân tìm về Thiên Chúa với ngôn ngữ nhà đạo. Thầy thuốc là tu sĩ của đạo Y, có phòng mạch là giáo đường, nơi cho những con người đau bệnh thân xác đến để tìm lại sức khoẻ và được chữa lành những thương tích. Người tu sĩ Y đạo không chỉ chữa bệnh thân xác mà còn chữa bệnh tâm hồn. Đối tượng mà đạo Y phải nhắm tới là Con Người với tất cả thuộc tính của nó. Con người nhân vị có hồn xác, có lương tri, có tình cảm, mang hình ảnh Thiên Chúa, là con Thiên Chúa.
Người bệnh tới với thầy thuốc xưng thú các thứ bệnh tật đang hoành hành trong thân xác họ. Thầy thuốc lắng nghe và đưa ra nhưng phương cách giúp họ khắc phục bệnh tật. Thái độ người thầy thuốc ảnh hưởng không nhỏ tới sự an lành mau chóng của người bệnh. Nếu ông đưa ra những cách giải quyết lạc quan thì bệnh tình dù chưa chữa cũng giảm phần trăm đáng kể. Nhưng nếu ông đưa ra một ý kiến thiếu chất “nhân đạo” thì bệnh dù nhẹ cũng hoá thành nặng do hoang mang lo lắng. Do đó, dù chưa nói đến y thuật, cái lương tâm nghề nghiệp là yếu tố không thể thiếu trong một “thầy thuốc đạo đức”. Lòng Nhân ái là động cơ thúc thẩy mọi hoạt động khác của Lương Y.

Mỗi người trong cộng đồng nhân loại đều có tình liên đới trách nhiệm với người khác. Mỗi người theo “ơn gọi” của mình mà làm tươi vui cho cuộc sống. Người làm tư tế, người làm thầy dạy, người chữa bệnh, người chuyên lo phục vụ…Một cách công bằng thì không có ơn gọi nào là để ‘chèn ép” ơn gọi khác, nghĩa là không có sự so sánh hơn thua mà chỉ có sự đền đáp. Người được ơn này phải tận dụng mà sinh lợi ích cho mình và nhất là cho người khác. Đó là đích điểm của Kitô giáo: Yêu Chúa và yêu người. Con người đó là con người trần tục với tất cả những yếu tố xã hội, nhân bản. Không có chuyện tục hoá tôn giáo mà là tôn giáo chưa đủ mạnh để thấm sâu vào thế tục hầu “giảm phanh” những trượt dốc của khuynh hướng xấu và uốn nắn lương tâm con người.
Kiến thức là điều kiện ắt có làm giàu lương tri. Biết chọn lọc những điều sinh ra từ kiến thức để nuôi dưỡng và phát triển nó. Kho tàng kiến thức nhân loại là kết tinh tự bao đời và qua bao sàng lọc để tồn tại. Thường tình người ta chỉ thu thập kiến thức trong lãnh vực mình cần tới, nhưng có một nhược điểm là dễ bị “táo bón” hiểu biết theo kiểu nói biết một mà không biết hai. Con nhà đạo mà không biết về sự phát triển của khoa học để chỉ nói về tiến hoá theo kinh điển thì ngô nghê vô cùng. Cập nhật hoá kiến thức và có những lý giải thuận tình vừa làm sáng ra những ẩn ý của kinh thánh lại vừa thấm nhuần ý nghĩa của Lời Chúa sống động ngay thời điểm này. Kiến thức phải là nhu cầu thiết yếu của mỗi người, mỗi ngành nghề, mỗi chức vụ.
Kiến thức được trau truốt từng ngày sẽ thêm sắc bén và hữu dụng, nhưng nếu được thuần hoá, được sàng lọc trong bởi một lương tâm ngay chính - nhất là lương tâm Kitô giáo - thì giá trị vượt hẳn những tri thức khô khan.
Đề cập tới lãnh vực lương tâm trong các ngành nghề, tôi muốn gợi ra một đề tài để nhiều người cùng suy tư. Chẳng riêng gì cho giới y khoa, mà ngay cả các linh mục, các giám đốc điều hành công ty, các nhà giáo dục, các tổ chức từ thiện, các nhà lãnh đạo quốc gia, những người cầm bút đấu tranh cho sự thật hoặc thông chuyển tin tức, ngay cả những người làm các ngành nghề thông thường như nông nghiệp, công nhân nhà máy, những tiểu thương trên các sạp hàng ngoài chợ…cho đến các bậc làm cha mẹ. Mỗi người, mỗi “lãnh thổ hoạt động” riêng, nhưng đều dẫn tới một mục đích là làm cho cuộc sống con người tốt đẹp hơn, ý nghĩa hơn, hạnh phúc hơn.
Một viễn cảnh tuyệt vời đang làm thế giới này thay da đổi thịt, những người bệnh được săn sóc chu đáo mà không cần biết họ có “bảo hiểm” hay không, mọi người dân được thoả mãn khi bước tới cửa quyền để tìm lại sự công bằng cho mình, không có những vụ lừa đảo thị trường, hàng dổm hàng giả, hàng kém chất lượng tràn lan; hết rồi những vụ thảm sát nhau trong trường học hay thanh toán đẫm máu vì tình vì tiền mà ta phải đọc mỗi ngày trên báo chí. ..
Và còn biết bao điều an lành khác nữa cho thế giới này, nếu như lương tâm ngay chính luôn sống động trong cuộc sống nhân vị hôm nay.
BS. Trần Minh Trinh