CHÙA HẢI TẠNG CÙ LAO CHÀM HỘI AN
Cụm đảo Cù Lao Chàm vốn có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với thương thuyền các nước vào ra hoặc ngang qua vùng Đô Thị cổ Hội An về nhiều mặt. Đặc biệt đối với thương nhân các nước theo Phật giáo lại càng có ý nghĩa về mặt tín ngưỡng riêng biệt. Chính vì thế Chùa Hải Tạng được xây dựng với mục đích đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của cư dân vùng đảo này nói riêng, đồng thời là nơi cho thương thuyền các nước ghé vào hành lễ cúng kính tín ngưỡng Phật giáo với cầu mong được phù hộ trên con đường làm ăn, buôn bán của họ. Ngay từ buổi sơ khai đến khi được tu bổ, tôn tạo khang trang, di tích là một công trình kiến trúc tín ngưỡng tôn giáo thờ Phật kết hợp Thánh Thần rất truyền thống và phổ biến ở khu vực Hội An.Theo nội dung văn bia được dựng vào năm Tự Đức Nguyên niên - 1848, được biết, một là chùa Hải Tạng được xây dựng vào năm Cảnh Hưng 19 (1758). Tức là sau khi Phật giáo theo dòng Lâm Tế của Tịnh Độ tông đã được hình thành và phát triển ở Hội An từ cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII không bao lâu. Hai là, nguyên lúc đầu chùa được xây dựng ở vị trí cách hiện nay khoảng 200m về hướng Đông Bắc, sau vì do bão làm hư hại nhiều và để thuận tiện cho các tín đồ đến hành lễ nên vào năm Tự Đức (1848) chùa đã dời về vị trí đang toạ lạc và tiếp tục được tôn tạo khang trang hơn. Từ đó đến nay chùa vẫn giữ được nguyên trạng bề thế, phong quang. Do ở vào thế phong thuỷ lý tưởng, toạ lạc sát chân núi phía Tây của Hòn Lao thuộc Cù Lao Chàm, lưng tựa núi vững chãi, mặt tiền xoay theo hướng Tây - Tây Nam nhìn thẳng vào núi Bà Mộc như thể hòn xôi án ngữ. Đây là hướng nhìn thật lý tưởng, bởi có sự thông thoáng, tiền hậu, tả hữu phân minh. Ngay dưới chân là đồng ruộng, khu dân cư và mờ xa về đất liền là Đô Thị cổ Hội An. Phía Nam có khoảng trống gió lùa dải dài qua Rừng Cấm (nay là Xóm Cấm) đưa hơi nước từ Hòn Nhờn lướt qua trước mặt thổi lên khu dốc Chùa. Theo truyền thuyết, trước đây khu này rừng rậm có nhiều trăn, rắn độc. Vì thế, để an toàn, tường thành bao bọc xung quanh chùa được xây bằng đá, cổng tam quan phía trước gồm 3 lối vào, Cửa tam quan có tạo dáng vòm, mái lợp ngói âm dương và đắp nhiều con giống. Toàn bộ tam quan cao 5m, rộng nhất 1,5m, dài 6m. Kề ngay đấy là 4 trụ biểu, trên chóp trụ có khối hình hoa sen cánh lật. Qua khu tam quan là khuôn viên sân rộng (20m x 15m) được bài trí phù hợp tạo không gian kín đáo, ấm cúng, phía trước sân ở góc trái có Miếu Ngũ hành. Dù thiên nhiên khắc nghiệt, lại phải đương đầu với nhiều trận cuồng phong hàng trăm năm qua nhưng đến nay, công trình chính vẫn vững vàng, bề thế. Tuy nhà Tây đã bị sập hoàn toàn, nhà Đông còn lại phần kiến trúc chính nhưng toàn bộ di tích vẫn toát lên vẻ hào sảng uy nghiêm hiếm thấy ở các di tích khác. Chính điện lựop ngói âm dương, bờ nóc, bờ hồi đắp nổi nhiều đường nét uốn lượn mềm mại, uyển chuyển tạo cảm giác bay bổng nhẹ nhàng. Lùi vào mái hiên khoảng 2,5m là hệ thống cửa (thường được khép kín), thượng song hạ bản, gồm 3 bộ, mỗi bộ 4 cánh ngăn không gian bên ngoài với không gian nội thất. Toàn bộ nếp nhà chính này có hệ vì kèo kết cấu kiểu “chồng rường giả thủ” chia làm 3 lòng. Việc mở rộng diện tích ở đây được sử dụng biện pháp tăng thêm lòng nhà bằng cách tăng cường hệ liên kết các cây rường, cột cái, cột quân và giả thủ trong thế đỡ thẳng lên đòn tay (hoành), lòng 3 của mái trước được ngăn cách bởi hệ thống cửa tạo thành mái hiên. Với lối kiến trúc này, cộng với liên kết ngang gồm 4 vì (vài) chia làm 3 gian, tạo cho không gian nội thất của chùa thông thoáng, vừa có chiều cao, vừa có chiều sâu và mở rộng. Các cây rường được bào nhẵn, có đường kính lớn đến 30cm, xoi chỉ, uốn cong lên ở giữa, 2 đầu thấp xuống ăn mộng sít sao với cột. Nhờ giải pháp này đã làm giảm thiểu cảm giác nặng nề dù chi tiết kiến trúc này đang phải gồng mình chịu lực chính. Kết hợp với rường, giả thủ cũng được tạo dáng hình quả bàu đỡ hoành (đòn tay), bào nhẵn, chân có mộng gắn với rường trong thế ôm khớp. Phần dép hoành ngoài cùng ở mái hiên được tạo dáng là một khối hình trụ gắn thêm dưới dép hoành cách điệu thành hình lồng đèn với thân chạm hình hoa lá, đầu là những cánh sen lật, đỡ thẳng lên đòn tay, dưới chạm nổi hình đầu rồng tinh xảo, sống động. Nội thất lộng lẫy nhờ hệ thống hoành phi, câu đối sơn son thếp vàng. Uy nghiêm, lớp lang huyền ảo thiêng liêng nhờ hệ thống tượng thờ đồ sộ trên những bàn hương án tả hữu, trước sau như những mạch tiếp nối huyền bí thẳm sâu trong khung cảnh đường bệ đầy màu sắc. Nổi bật nhất vẫn là bộ Tam thế Phật bằng hợp chất gồm 3 tượng. Kế đến là tượng Thích Ca ngồi trên đài sen. Bộ tượng Quan Công, Châu Thương, Quan Bình. Tượng Quan Âm, Văn Thù, Ngọc Hoàng Thượng Đế, bộ tượng Địa Tạng Vương, Hộ Pháp, tượng Bồ Đề Đạt Ma. Việc thờ phụng ở đây thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa Phật, Thần, Thánh và điều quan trọng hơn là phản ánh hợp thể tín ngưỡng độc đáo của cư dân Cù Lao Chàm trong bối cảnh giao thương mậu dịch quốc tế hàng hải. Chùa có nhiều truyền thuyết nhưng cư dân ở đây vẫn tâm đắc nhất câu chuyện về việc xây chùa. Tương truyền các cây cột được làm từ ngoài Bắc đem về làm một chùa nào đó trong Nam nhưng khi về đến Cù Lao Chàm vì trời tối nên phải neo ghe nghỉ lại. Sáng ra, ghe kéo neo đi tiếp, nhưng thật lạ lùng, biển tự dưng sóng dậy, ghe cứ xà quần, tới lui lòng vòng không đi ra khỏi Lao. Sau có người trong đoàn lên cúng xin keo mới biết dàn cột này phải để lại dựng chùa cho Cù Lao Chàm không được đem đi. Vì thế chùa dựng lên lấy tên là Hải Tạng. Hải là biển, Tạng là kinh, ý nói Chùa là nơi hội tụ kinh tạng mênh mông như biển. Một ý khác là Kinh tạng của Nhà Phật đây được hội tụ từ mọi con đường trên biển. Có chi tiết thú vị là khi đi qua cầu không được nên dân chúng bắc đá làm cầu để đem cây vô dựng chùa. Cầu làm mãi, đá xếp lên đổ xuống hoài nên phải thắp hương xin các vị bề trên. Đức Phật cho làm chùa ở gần nơi Tháp Chàm. Mọi người tập trung trong thời gian ngắn thì xong. Lại có câu chuyện khác về việc đúc chiếc chuông bằng đồng cao 120cm, cao thân 93cm, đường kính miệng 58cm đường kính thân 46cm, được tạo vào đời Minh Giác Hòa Thượng, năm Canh Dần 1770. Chuông chùa đúc ở ruộng ông Vợt. Tương truyền Hoà Thượng kêu gọi mọi người cúng dường, vì thế ai cũng muốn tích phúc, trong số đó có một bà già nghèo chỉ có trong tay một đồng cũng xin góp. Cảm động trước tấm lòng sùng kính của bà, Hoà Thượng trả lại bà đồng tiền và nói để bà đem về mua trầu ăn. Chuông đúc xong đến phần việc gắn quai rồng vào đầu chuông để treo lên nhưng lạ lùng thay, thợ gắn mấy cũng không dính. Hoà Thượng chợt hiểu mới cho mời bà già đem đồng tiền đến để cúng dường. Quả nhiên sau đó quai chuông gắn được, mọi người mới vỡ lẽ không cốt giàu chỉ cốt tấm lòng thôi. Chuông chùa đã gửi gắm bao nhiêu tấm lòng người dân đảo ở trong đó vì thế khi chuông ngân lên, vang xa là bởi có nhiều tiếng nói, tiếng lòng của con người trong ấy. Chính vì vậy lại có nhiều truyền thuyết về xung quanh chiếc chuông đồng hiện treo ở phía Đông của chùa. Trên đó khắc các bài kệ nổi tiếng:
- Bài 1: Nguyễn thự chung thanh siêu pháp giới (đánh một tiếng chuông siêu 3 cõi) Thiết di u ám tất giai văn (mọi sự u ám hết chỉ còn cái đẹp) Văn trần thanh tịnh chứng viên thông (thanh tịnh sẽ chứng cho sự thông hiểu) Nhất thiết chúng sanh thành chánh giác (nhất thiết mọi người đều chánh giác)
-Bài 2: Văn chung thanh phiền não khinh (tiếng chuông nhẹ hết phiền não) Trí huệ trưởng Bồ Đề sanh (có trí huệ phát tâm Bồ Đề) Ly địa ngục xuất hoạ khanh (địa ngục có chứng) Nguyện thành Phật độ chúng sanh (Thành Phật độ chúng sanh)
- Bài 3: Hồng chung sơ khấu bảo kệ cao âm (chuông ngân cao như lời kệ quý) Thượng thông Thiên Đàng hạ triệt Địa Phủ (đến 3 nơi: trời, đất, âm phủ) U minh giáo chủ cứu khổ bổn tôn (Địa Tạng Vương cứu khổ) Cứu bạc minh đồ đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát (cứu độ là do ngài ...) Theo nhiều cụ cao niên ở đây nói rằng, trước đây, chuông kêu to lắm, vang vọng vào tận Hội An nhưng vào thời Pháp chiếm, dân chúng sợ cuớp đem chôn. Lâu ngày đào lên bị ám âm khí nên nay tiếng kêu thường.
Ngày 25/9 âm lịch hàng năm, chùa kỵ tổ Thượng Hải Hạ Lượng Thiền Sư Minh Hải Lâm Tế Chánh tông Khai sơn Hải Tạng tự tại vị trí này. Khuôn viên đất chùa đang toạ lạc là đất của ông bà Nguyễn Xít cúng cho chùa. Hiện nay tộc Nguyễn này đã mất. Hương Hải Thiền Sư - Vị sư nổi tiếng trong giới tu hành từng có thời gian dài ở Hải Tạng rồi sau đó mới về Huế.
Trước đây thập phương cúng cho chùa nhiều thứ quý giá lắm. Đời nào cũng để lại các sản vật từ các nơi đem đến. Thế nhưng mỗi khi có loạn lạc các vật quý lại hao tổn. Thời chiến tranh, lính Pháp cướp đi mất 1 độc bình, 1 tượng Phật đồng đen, 1 chuông nhỏ.
Chùa Hải Tạng là công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng được xây dựng đánh dấu bước hình thành và phát triển về lịch sử của khối cộng đồng cư dân Cù Lao Chàm trong từng giai đoạn hết sức phong phú. Cùng với sự hiện diện gần như nguyên trạng về kết cấu kiến trúc, mỹ thuật, cách bố trí tượng thờ nguyên thủy của thời kỳ Tam giáo Đồng nguyên trong Phật giáo ở Hội An, chùa Hải Tạng là nguồn tư liệu quý trong việc nghiên cứu khoa học trên nhiều lĩnh vực. Nhất là vào thời điểm hiện nay khi Cù Lao Chàm trở thành khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới thì di tích lại trội vượt lên với tư cách là một bức tranh tuyệt vời nằm trên một tổng thể di tích danh thắng Cù Lao Chàm. Chùa Hải Tạng đang là điểm đến tham quan du lịch đầy lý thú, cung cấp nhiều dữ liệu nghiên cứu hấp dẫn, góp phần làm cho Cù Lao Chàm trở thành THIÊN ĐƯỜNG DU LịCH.
By Nguyễn Đức Minh
- Trung tâm Quản lý Bảo tồn di tích Hội An

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã góp ý, xin chân thành cảm ơn !