Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

Tết, vui và lắm nỗi khổ!


Tết, vui và lắm nỗi khổ!


Năm 2013 đã bước sang tháng Hai, nhưng đối với phần đông người VN, năm mới chỉ thật sự bắt đầu khi Tết Âm lịch đến. Và như vậy, vẫn còn vài ngày nữa mới là năm mới, năm Quý Tỵ.
Tết với người Việt, không chỉ là dịp lễ lớn nhất trong năm mà còn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Gia đình nào dù nghèo đến đâu cũng phải ráng chạy vạy cho có cái Tết, có mâm cơm cúng ông bà, miếng ăn ngon cho người già, tấm áo mới cho trẻ con khỏi tủi. Ai đi xa làm ăn ở đâu, ba ngày Tết cũng ráng trở về, tụ tập với gia đình.
Nhìn lại năm 2012, bức tranh toàn cảnh từ chính trị-quốc phòng-xã hội-kinh tế-giáo dục-văn hóa-thể thao-môi trường… đều u ám. Nhất là kinh tế. Những ai ở xa, chỉ cần theo dõi ngay chính báo chí nhà nước, thời điểm từ trước Tết Dương lịch cho đến trước Tết Âm lịch, nhất là những bài viết tổng kết tình hình cuối năm trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, cũng thấy ngay điều này.
Còn với người dân đang sống trong nước, trừ một thiểu số giàu có, việc phải đối phó với sự khó khăn, khủng hoảng về kinh tế vốn đã kéo dài trong năm, càng hiện rõ khi Tết về. Vì vậy, sẽ có không ít người, không ít gia đình năm nay không có Tết hoặc chỉ có một cái Tết hết sức đạm bạc.
Nhưng ngay cả khi chưa cần đến tình hình kinh tế sa sút thì hầu như những năm sau này, cứ Tết đến là người Việt lại phải đối mặt với những cái lo, những nỗi ám ảnh giống nhau.
Nỗi ám ảnh thứ nhất là tiền (tất nhiên, cũng loại trừ một thiểu số giàu có).
Với những người đi làm lãnh lương tháng, dù là nghề gì, làm cho tư nhân hay nhà nước, cũng đều trông chờ vào món tiền thưởng cuối năm của công ty, cơ quan. Không biết cái cụm từ “tiền lương tháng mười ba” có từ bao giờ nhưng ở VN, đa số các công ty, cơ quan vẫn có lệ thưởng cho công nhân viên, gọi là tiền thưởng Tết, mừng Tết hay "tiền lương tháng mười ba". Nếu công ty, cơ quan nào ăn nên làm ra thì tiền thưởng có khi gấp mấy lần tiền lương tháng, nhưng nếu làm ăn thất bát, thì một phần ba tháng lương cũng chưa chắc đã có.
Ngược lại, đối với các ông giám đốc, chuyện lo tiền thưởng Tết cho nhân viên cũng là nỗi ám ảnh không kém, nhất là khi kinh tế sa sút.
Nông dân và công nhân, “hai giai cấp tiên phong, lực lượng nòng cốt của cách mạng” như đảng và nhà nước cộng sản VN vẫn luôn luôn lặp đi lặp lại từ trước đến nay, trong thực tế là hai tầng lớp thiệt thòi nhất, nghèo cực nhất. Đa phần công nhân là từ các làng, xã nghèo bỏ lên thành phố hoặc đi đến tỉnh thành xa xôi khác để làm việc cho các xí nghiệp, nhà máy. Mức lương bèo bọt trên dưới 100 USD/tháng chỉ vừa đủ cho người công nhân sống chen chúc trong những chỗ trọ chật hẹp, tăm tối, ăn những bữa ăn thiếu chất rồi vắt kiệt sức mình làm việc có khi 12, 14, 16 giờ mỗi ngày để dành dụm gửi tiền về quê nuôi cha mẹ già, em nhỏ hoặc vợ dại, con thơ. Cứ Tết đến là đa phần công nhân ngóng chờ món tiền thưởng để về quê ăn Tết. Nhưng với tình hình như năm 2012 thì hy vọng đó nhiều khi cũng tắt ngóm.
Đã có những câu chuyện bi hài như doanh nghiệp làm ăn thua lỗ rồi bỏ trốn, hoặc nợ lương, đẩy công nhân vào cảnh không có Tết, có công ty còn đóng cửa khiến nhiều công nhân mất việc trước Tết như trong bài “Cám cảnh giám đốc bỏ trốn để xù lương”trên báo VietnamNet.
Có những nơi, như “tại chi nhánh Cty TNHH may-thêu giày An Phước- ở KCN Tân Bình, Q.Tân Phú, khoảng 700 CN đã ngừng việc phản đối kế hoạch thưởng Tết Nguyên đán- 2013 của Cty” (“Bị trừ thưởng Têt vô lý, gần 700 công nhân ngừng việc”, báo Lao Động).
Rồi nào là “Đắng lòng cảnh công nhân phải nghỉ Tết sớm vì nhà máy hết…việc”, (báo Pháp luật VN), “Mất việc trước tết, công nhân đi đâu, về đâu?”, (báo Lao Động.), “Công nhân sắm quà tết: teo tóp theo lương thưởng” (báo Sài Gòn Tiếp Thị), “Cận cảnh đời sống công nhân giáp Tết” (báo VnEconomy)…
Một thành phần khác cũng khó khăn không kém khi Tết đến là giáo viên. Lương giáo viên đã thuộc loại thấp so với nhiều ngành khác trong xã hội, nhưng năm nào cũng vậy, cứ Tết đến là tình trạng thưởng Tết quá bèo bọt lại tái diễn. Có những nơi như tỉnh nhỏ, vùng sâu vùng xa, giáo viên có được bịch trà hoặc gói kẹo hoặc cuốn lịch đã là may lắm.
Giới nhân viên văn phòng, công chức ở nhiều công ty cũng bị “găm” tiền lương, tiền thưởng, dẫn đến cảnh bi hài khác là nhân viên phải đi đòi lương như đòi nợ, thậm chí thuê xã hội đen, dọa kiện cáo hoặc vác ghế phang vào người sếp như trong bài“Nhân viên thẳng tay “tẩn” xếp vì bị nợ lương”, (VietnamNet).
Ngay cả ngành tài chính-ngân hàng, trước đây vài năm là một ngành thuộc loại hot đối với sinh viên và nhiều người, có mức lương thuộc loại cao, thì năm 2012 lại là một trong mấy ngành bị nhiều biến động, khủng hoảng nhất, dẫn đến tình trạng “Vi-rút không thưởng Tết lây lan chóng mặt trong ngành ngân hàng” (Cafef).
Sự chênh lệch giữa mức thưởng Tết giữa các ngành cũng vô cùng chênh lệch. Ngay năm nay, vẫn có những công ty thưởng Tết “khủng”, nhưng đó là “sếp” được thưởng, chứ không phải công nhân. (Bài “Ai nhận lương, thưởng tết “khủng” trăm triệu?”, báo Lao động).
Nỗi ám ảnh thứ hai là tình trạng an toàn vệ sinh thực phẩm mấy ngày Tết.
Bình thường chuyện thực phẩm “bẩn”đã là chuyện thường ngày ở VN. Cứ mở báo ra là thấy tràn ngập các thông tin loại này. Nhưng Tết đến, do mức độ ăn uống, mua sắm tăng cao nên thực phẩm “bẩn”, độc hại, hàng hóa dỏm, giả càng nhiều. Nào“Tràn lan thực phẩm “bẩn” dịp Tết”, (Người đưa tin), “An toàn thực phẩm dịp Tết: vẫn khó kiểm soát”, (Hà Nội Mới), “Ngán ngại thực phẩm tết không bao bì, không rõ nguồn gốc”, (Thanh Niên)…
Có khá nhiều nguồn thực phẩm bẩn, giả, độc hại là từ TQ tuồn qua theo đường biên giới, nhập lậu: nào gà thải, chân trâu bò thối, nội tạng thối…, gia vị, thực phẩm khô các loại, nước mắm pha chế hóa chất, bột ngọt giả, mới đây các cơ quan chức năng còn bắt được “Mứt trái cây làm bằng… nhựa xuất xứ Trung Quốc”. Rồi mực khô làm bằng...nhựa ở Hà Tĩnh, không biết nguồn gốc từ đâu, "Xem quản lý thị trường bắt lô mực khô nghi làm bằng...nhựa" (báo Dân trí). 
Nhưng ngay chính người Việt mình cũng hại nhau. Nhiều nơi sản xuất nước tương, lạp xưởng, mứt Tết…có tận mắt chứng kiến mới thấy vô cùng mất vệ sinh. Giò chả, bún, phở, miến…thì ngâm hàn the để có màu trắng, dai. Nhiều chỗ mổ lợn, bò, nhất là điểm mổ lậu, nguồn thịt không còn tươi. Ngay cả siêu thị lớn cũng chưa chắc an toàn (“Bánh bao mốc xanh, thịt cá bốc mùi tại Co.opmart Hà Nội" (báo An ninh Thủ Đô).
Đó là chưa kể trong vô số hàng quán luôn luôn đông nghẹt người ăn vào những ngày Tết, có những nơi không chú ý vấn đề an toàn vệ sinh trong nguồn thực phẩm, trong nấu nướng, chế biến. Chẳng trách năm nào vào dịp Tết, số người phải nhập viện vì ngộ độc thực phẩm cũng cao hơn ngày thường. Và con số người Việt bị ung thư cứ càng năm càng tăng.
“Theo bản thống kê mới nhất của Hiệp hội Ung thư Việt Nam, mỗi năm cả nước có thêm khoảng 150 ngàn ca mắc bệnh mới và khoảng 75 ngàn người chết vì ung thư. Nếu cộng thêm với số bệnh nhân đã mắc tính đến thời điểm hiện tại, cả nước Việt Nam có khoảng từ 240 ngàn bệnh nhân cho đến 250 ngàn bệnh nhân.” (“Số người Việt bị ung thư tăng cao”, Thời báo).
“Trong một nghiên cứu tại khu vực ASEAN được công bố năm 2011, Việt Nam là nước có tỉ lệ người tử vong vì ung thư dạ dày cao gấp 5 lần các nước trong khu vực, cao hơn hơn 4 - 5 lần so với Lào, Philipines, Thái Lan.” (“Ung thư tăng vì người Việt bị "đầu độc" hàng ngày” (tin 24giờ).
Một nỗi ám ảnh khác là chuyện tàu xe về quê ăn Tết.
Không phải ai cũng có tiền đề đi máy bay, với những người lao động nghèo đi làm ăn xa, Tết đến lại thu xếp về quê, thì các phương tiện phổ biến vẫn là xe lửa, xe đò. Cảnh nằm ngồi vạ vật, chen chúc để mua vé xe lửa, xe đò về quê năm nào cũng diễn ra. Nạn xe "dù" được dịp này là tung hoành, tha hồ chặt chém, nhồi nhét mọi người chật cứng trên xe, phóng ào ào trên đường…Rồi tai nạn lại xảy ra do phóng nhanh, do đường quá xấu…
Ngày Tết đi chơi cũng lắm chuyện bực mình. Từ các khu vui chơi, công viên, hội chợ… ở các tỉnh thành cho đến các thành phố, địa điểm du lịch như Đà Lạt, Vũng Tàu, Vịnh Hạ Long, Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc…rất ít khi du khách cảm thấy thật sự hài lòng, niềm vui trọn vẹn. Khi thì bị chặt chém, khi thì dịch vụ vừa kém vừa đắt, đông người, thức ăn bẩn, nạn chèo kéo, móc túi…Chỉ có dân giàu đến những khu resort, nhà hàng, khách sạn cao cấp thì mới tránh được những tình trạng này. Những năm sau này người Việt tầng lớp có tiền còn nhân dịp Tết đi chơi xa ở nước ngoài, chứ không mặn mà du lịch ở các nơi trong nước nữa.
Nhưng lại nhắc lại, đó chỉ là một thiểu số. Nhìn chung, đã đến thế kỷ XXI rồi mà số đông người Việt vẫn phải khổ cực, đến cái Tết là dịp lẽ ra phải thoải mái tinh thần thì cũng không thoải mái được.
Nhưng dân ta lại vẫn cứ thích Tết âm lịch. Mới đây rải rác có những ý kiến cho rằng có nên bỏ Tết ta, ăn Tết tây vừa tiết kiệm một năm khỏi tốn tiền cho 2 cái Tết, mà Tết ta lại dài quá, tốn kém quá, bây giờ đâu còn mấy quốc gia ở châu Á ăn Tết Âm lịch, người Nhật cũng bỏ từ lâu, chưa kể Tết ta thì cũng là Tết…của Tàu thôi v.v…Nhưng đã có nhiều người không đồng ý. Suy cho cùng, bản thân cái Tết Âm lịch chưa chắc đã có tội tình gì, những nỗi khổ khi Tết đến vừa kể trên là do xã hội của chúng ta, do chính chúng ta gây ra, chứ chả phải do Tết Âm lịch!

Thứ Năm, 7 tháng 2, 2013

Mùa xuân bên kia bờ khát vọng.

 Mùa xuân bên kia bờ khát vọng. 

Dù ta không làm được việc lớn để thay đổi bộ mặt xã hội, nhưng ta có thể làm được việc nhỏ. Từ việc nhỏ ta làm cũng có khả năng tác động việc lớn. Dù không đủ sức làm một cơn sóng thần chấn động mặt hồ, nhưng với một giọt nước nho nhỏ, cùng nhau, ta vẫn có thể làm mặt hồ chuyển động. Hãy góp nhặt mọi ươm mơ từ nhau. Hãy để vòng tay nối với vòng tay, ước mơ nối với mơ ước. Đêm cuộc đời có còn dày đặc đi nữa nhưng trong ta, trong vòng tay đan chặt, nhất định sẽ vạch thấy ánh mặt trời, nhất định sẽ tìm thấy mùa xuân bên kia bờ khát vọng...

Người phu quét lá bên đường
quét cả gió nồm
quét cả mùa đông (*)...

Cuộc đời có bao giờ dừng lại trên những than van? Bao năm bụi mờ, gió bạt và cuộc sống vẫn lạnh lùng trôi. Những lang thang đã bước, xót xa đã viết thành văn, đớn đau đã kể thành lời. Và trở thành những âm vang đơn điệu buồn tẻ. 

Trong giòng trôi chảy đó, vẫn có người - và những người - đang lầm lũi quét lá vàng khô dưới bầu trời xám đen ảm đạm. Chung quanh lá vẫn rơi. Những nhịp chổi vẫn đều đều quét. Yên lặng. Kiên nhẫn. Chịu đựng. Chung quanh lá rơi càng lúc càng nhiều hơn. Ở bên kia con đường có những bóng đen đang ngồi bên trong khung cửa ấm, sáng. Vỉa hè tối, lố nhố những người co ro. Kẻ ngoảnh mặt. Người nhìn ra. Thi thoảng một vài kẻ băng qua đường âm thầm nhập bọn với người phu quét lá.

bàn chân thoát chốn ao tù 
em về đứng chờ dưới ngọn tình ca 
mùa xuân lót lá em nằm 
lót đầy hố hầm lót lời đạn bom...(*) 

Một sớm mai, bầu trời ảm đảm và nhiều mây đen chợt biến mất, nhường chỗ cho nắng xuân quang đãng. Hai bên đường rộn ràng cỏ xanh, hoa bướm. Những chiếc lá vàng đã không còn nữa. Biến mất. Tưởng như một phép lạ. Và chồi xanh sống dậy. Tưởng như một bình thường. 

Những người ngồi trong khung cửa ấm, những người co ro vỉa hè mùa mây xám cũ, bây giờ, đang ngã mình phơi nắng dưới bầu trời trong xanh. Đêm trước, họ đã băng qua đường. 

người phu thôi quét bên đường 
quét chỗ em nằm quét cả mùa xuân (*) 

Không nhìn thấy đâu những người quét lá năm xưa. Họ đã tỏa ra khắp bốn phương trời. Theo sau là những em bé tung tăng miệng cười. Những chiếc chỗi trên tay đã được thay thế bằng những cái búa cái đinh. Và những ngôi nhà mới mọc. 

Còn lại nơi góc công viên là mãnh giấy bạc màu cắm vào thân cây từ mùa mây xám ảm đảm năm trước: 

Dù ta không làm được việc lớn để thay đổi bộ mặt xã hội, nhưng ta có thể làm được việc nhỏ. 

Từ việc nhỏ ta làm cũng có khả năng tác động việc lớn. Dù không đủ sức làm một cơn sóng thần chấn động mặt hồ, nhưng với một giọt nước nho nhỏ, cùng nhau, ta vẫn có thể làm mặt hồ chuyển động. 

Hãy góp nhặt mọi ươm mơ từ nhau. 

Hãy để vòng tay nối với vòng tay, ước mơ nối với mơ ước. 

Đêm cuộc đời có còn dày đặc đi nữa nhưng trong ta, trong vòng tay đan chặt, nhất định sẽ vạch thấy ánh mặt trời, nhất định sẽ tìm thấy mùa xuân bên kia bờ khát vọng.


Triết lý bánh Chưng Tết Việt


Triết lý bánh Chưng Tết Việt 
Hãn Nguyên Nguyễn Nhã
.

Dân tộc nào cũng có thức ăn truyền thống. Song chưa thấy dân tộc nào có một thức ăn vừa độc đáo, vừa ngon lành, vừa bổ, vừa gắn liền với truyền thuyết dân tộc lâu đời, lại vừa có nhiều ý nghĩa sâu xa về vũ trụ, nhân sinh như bánh chưng, bánh dầy của Việt Nam.

Bánh chưng hình vuông, màu xanh, tượng trưng trái Đất, âm. Bánh dầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt 
Nam nói riêng.

Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh dầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh dầy là thức ăn trang trọng, cao quí nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ.

Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân.Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho”.

Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ 6 là Lang Lèo (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy Thần Đèn bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”.

Lang Lèo (sau có người gọi Lang Liêu) tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi.

Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Lèo chỉ có bánh Dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Lèo, tức đời vua Hùng Vương thứ 7.

Từ đó, cứ đến Têt nguyên đán hay các đám cưới, đám tang, dân gian bắt chước làm theo, sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất.

Bánh chưng độc đáo, sáng tạo, đậm đà bản sắc dân tộc còn ở những vật liệu và cách gói, cách nấu. Lúa gạo thì tượng trưng cho nền văn hóa lúa nước, nhiệt đới, nóng và ẩm, được chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau, mang tính đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam hay Đông Nam Á. Người Trung Hoa ưa chế biến từ bột mì hơn; người Ấn Độ thì ưa chế biến từ kê…

Thịt lợn hay heo được coi là lành nhất, nên các bệnh viện ngày nay thường chỉ sử dụng lọai thịt heo chứ không dùng thịt bò hay thịt gà là thức ăn chính cho bệnh nhân. Người Việt thích thịt luộc hay nấu. Đậu xanh vừa ngon lành vừa bổ dưỡng. Bánh chưng như thế rất nhiều chất, đặc trưng của các món ăn Việt Nam.

Độc đáo hơn nữa, khi nấu trong một thời gian khá dài thường trên 10 tiếng, phải để lửa râm râm, bánh mới ngon. Nấu bằng lò gas, tuy nhanh, nóng quá cũng sẽ không ngon. Vì được gói bằng lá dong, bánh chưng vừa xanh vừa đẹp, thơm hơn lá chuối. Phải gói thật kín, không cho nước vào trong, bánh mới ngon. Lạt phải buộc thật chật, chắc; gói lỏng tay, ăn không ngon. Song nếu chắc quá, bánh cũng không ngon.

Tuy gọi là luộc (người Việt Nam thích luộc, người Trung Quốc thích quay), song vì nước không tiếp xúc với vật liệu được luộc, nên lại là hình thức hấp hay chưng (chưng cách thủy), khiến giữ nguyên được chất ngọt của gạo, thịt, đậu!

Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới gọi là bánh chưng. Vì thời gian chưng lâu nên các hạt gạo mềm nhừ quyện lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”, khi hạt gạo nhừ quyện vào nhau như thế, người ta gọi bánh chưng “rền”. Vì nấu lâu như thế, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đậu đều nhừ. Cũng vì thời gian chưng lâu, khiến các chất như thịt, gạo đậu nhừ, có đủ thời gian chan hòa, ngấm vào nhau, trở thành hương vị tổng hợp độc đáo, cũng mang một triết lý sống chan hòa, hòa đồng của dân tộc ta.

Cách chế biến như thế rất độc đáo, công phu. Bánh chưng nhất là bánh dầy có thể để lâu được. Khi ăn bánh chưng, người ta có thể chấm với các lọai mật hay với nước mắm thật ngon, giàu chất đạm; cũng có thể ăn thêm với củ hành muối, củ cải dầm hay dưa món… Dân Bắc Ninh xưa thích nấu bánh chưng, nhân vừa thịt vừa đường!

Bánh chưng, bánh dầy quả thật là một món ăn độc đáo có một không hai của dân tộc. Bánh chưng là một trong những bằng chứng cụ thể chứng tỏ văn hóa ẩm thực Việt Nam có nhiều tiềm năng khiến Việt Nam trở thành một cường quốc về văn hóa ẩm thực!
H.N.N.N

Bài đọc thêm:
.
Ngày Tết, bánh chưng xanh –câu đối đỏ, hai thứ không thể thiếu trong mỗi gia đình người Việt. Cái Tết sẽ kém thi vị, ý nghĩa khi mất đi, hoặc vắng một trong hai. Bánh chưng xanh –sản phẩm lâu đời của nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Nó bình dị thân thiết màu xanh tươi tắn như mạ non thì con gái chứa đựng nhiều lý thú.

Nếp ba tháng trắng phau, vo sạch để ráo nước. Từng hạt chắc mẩm, ánh lên bóng bẩy. Thịt heo đầy đủ phức hợp nạc –mỡ –da, cùng với đỗ (đậu) vàng bỏ vỏ làm nhân. Tất cả được đùm bọc lại bên ngoài bằng lá dong (hoặc lá chuối) có dây lạt mềm đen tuyền buộc chặt. Sản phẩm hoàn toàn từ nông nghiệp: trồng trọt và chăn nuôi.

Đơn giản như thế nhưng nó thể hiện tính tư duy sâu sắc của người xưa. Cắt chiếc bánh chưng, một tổng thể năm sắc màu hiện lên: vàng ngà hạt đỗ bùi bùi thoảng hương, đỏ thịt lợn chín, trắng ngần màu nếp, xanh lá dong và đen tuyền sợt lạt buộc bên ngoài. Từ trong ra ngoài, thể hiện triết lý: Âm dương, Tam tài và Ngũ hành.

Năm màu tượng trưng cho Ngũ hành trong triết lý phương Đông: Thủy (đen), Hỏa (đỏ), Mộc (xanh), Kim (trắng), Thổ (vàng). Ngũ hành tương sinh –tương khắc hài hòa, bổ trợ cho nhau trong tổng thể vuông vức. Màu vàng ứng với hành Thổ trong thế đất vuông nằm ở trung ương, tượng trưng cho con người rất quan trọng. Trong chiếc bánh chưng, hạt đỗ vàng được bao bọc chính giữa bánh, bên cạnh thịt lợn –thể hiện sự quan trọng này.

Bên cạnh hạt đỗ vàng là thịt lợn đỏ. Hai cặp phạm trù Âm dương hòa quyện lấy nhau (hạt đỗ –thịt lợn; động vật –thực vật; tĩnh –động), chúng bổ trợ cho nhau trong quá trình phát triển. (Trong đời sống thực vật và động vật đã có sự nương dựa vào nhau. Thực vật là nguồn sống của động vật, ngược lại, chất thải của động vật tạo năng lượng cho thực vật hấp thụ phát triển). Cùng bao bọc hạt đỗ –thịt lợn (âm –dương) là màu trắng của nếp. Nếp –hạt đỗ –thịt lợn (âm –dương –âm; thực vật –động vật –thực vật) tạo thành một Tam tài.

Tam tài với ba cặp phạm trù âm dương (nếp –thịt lợn, âm –dương), (hạt đỗ –thịt lợn, âm dương), (nếp –hạt đỗ, âm –dương, nếp được trồng dưới nước –đỗ trồng trên cạn, nước –đất, ướt –khô) đã hòa quyện và bổ trợ cho nhau trong tổng thể phức hợp. Và từ Âm dương, Tam tài đã phát triển lên Ngũ hành. Đó là lạm bàn bản chất của bánh chưng. Ngay cả quá trình luộc chín bánh cũng thể hiện triết lý Ngũ hành: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ.

Người ta dùng nước để luộc bánh, lửa được đốt từ củi và tất nhiên dùng nồi lớn (kim) đặt lên ba ông đầu rau (thổ). Cả năm thứ: nước, lửa, củi, nồi, ông đầu rau bổ trợ cho nhau, hài hòa bên nhau.

Xưa, nền kinh tế chính của ông cha ta không gì ngoài làm nông. Quanh năm làm bạn với nước, đất, giống và vô hình thiên nhiên, thời tiết đã đóng vai trò rất quan trọng. Hội làng mở ra cũng chỉ nhằm mục đích cầu trời phù hộ cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, làm ăn phát đạt. Triết lý Âm dương, Tam tài, Ngũ hành ra đời cũng không ngoài ý niệm trên.

Chỉ gói gọn trong chiếc bánh chưng xinh xắn kia là cả tư duy độc đáo, đáng khâm phục của ông cha. Nó đã thoát khỏi đơn thuần là vật chất, móm ăn bình thường trở thành đại diện chuyển tải tư tưởng triết lý sâu sắc đậm nét nông nghiệp lúa nước. Từ đây, cần nên gìn giữ phát huy cho xứng đáng với vị thế chiếc bánh chưng trong ngày tết.


Nguyễn Xuân Diện - sưu tầm.

Người nước ngoài háo hức với Tết Việt


Người nước ngoài háo hức với Tết Việt
(VOV) - Được trải nghiệm Tết cổ truyền Việt Nam là một trong những điều thú vị đối với du khách nước ngoài.
Không khí xuân tràn ngập trong từng hàng cây, góc phố. Ngày Tết cổ truyền đang đến rất gần, trong khi người người náo nức thu xếp về nhà sớm để chuẩn bị Tết cùng gia đình thì những du khách đến Việt Nam cũng đang đếm từng ngày để được hòa mình vào không khí Tết vui tươi, đầm ấm của người Việt.

May mắn vì đến Việt Nam đúng dịp Tết cổ truyền


Choáng ngợp trước sự đông đúc, náo nhiệt của thủ đô Hà Nội những ngày giáp Tết, điều đầu tiên mà Adriana và Gabriella, hai du khách đến từ đất nước Argentina xa xôi cảm nhận được đó là một chút căng thẳng. Đường phố đông xe cộ ngược xuôi đi sắm Tết khiến hai người họ rất khó di chuyển, đặc biệt là lúc sang đường. Nhưng nhìn dòng người hối hả chở cây và hoa với gương mặt tươi tắn, bao nhiêu mệt mỏi, khó chịu của hai cô gái bỗng tan biến hết. Cả hai cùng ngắm nhìn kỹ hơn phố phường thủ đô được trang hoàng lộng lẫy khi cái Tết cổ truyền của người Việt đang đến thật gần. “Mình thấy đâu đâu cũng ngập tràn sắc hồng của hoa và thật nhiều những cây có hình dáng trông giống như cây thông nhưng lại mang trên mình vô số những quả cam tí hon được chở trên đường. Vì chưa bao giờ đến Việt Nam nên chúng mình không biết nhiều về phong tục ngày Tết của các bạn lắm, chỉ thấy không khí mọi người chuẩn bị đón tết thật náo nhiệt, khiến những du khách như mình háo hức vô cùng”.

Adriana cho biết cô cùng người bạn đồng hành của mình cảm thấy rất may mắn khi đến Việt Nam vào đúng thời điểm này, và nhất định sẽ ở lại cảm nhận hương vị Tết cổ truyền Việt Nam. 
Gabriella và Adriana cảm thấy may mắn khi đến Việt Nam đúng dịp Tết cổ truyền
Còn Andrea và Evelin, hai du khách người Thụy Sĩ chia sẻ: “Mình cảm thấy không khí người dân chuẩn bị Tết rất náo nhiệt. Mọi người ra đường mua sắm nhộn nhịp, và tắc đường nhiều quá (cười). Bọn mình vừa trở ra từ phố Hàng Mã, những đồ trang trí Tết ở đó rực rỡ sắc đỏ tượng trưng cho may mắn khiến mình cảm nhận được một năm mới an lành đang đến gần. Mình thích cách các bạn trang trí hoa tươi trên khắp các con phố xung quanh hồ. Ở đây, mọi người có những cây hoa đào, hoa mai vàng thật đẹp. Băng rôn, khẩu hiệu treo dọc phố phường, có thể thấy mọi người háo hức đón Tết ra sao”.


Hai du khách người Thụy Sĩ háo hức với Tết  Việt

Không thể ở lại đón Tết cổ truyền ở Việt Nam, bà Ann, giáo viên đến từ Bỉ không giấu nổi vẻ tiếc nuối. Bà Ann chỉ ở Hà Nội trong thời gian ngắn sau đó đến Hạ Long và TP Hồ Chí Minh để thăm học sinh của mình rồi sẽ quay trở lại Bỉ trước Tết. Tuy vậy nhưng bà vẫn kịp cảm nhận được không khí rộn ràng của phố phường Hà Nội trong những ngày này.

“Qua những sinh viên người Việt của mình thì tôi được biết Tết cổ truyền là dịp lễ quan trọng nhất ở Việt Nam. Trong những ngày Tết, các gia đình quây quần bên nhau, đây là dịp để con cháu ở xa về sum họp trong không khí thật đầm ấm, vui tươi. Nếu có cơ hội, tôi sẽ trở lại Việt Nam để trải nghiệm ngày Tết của các bạn” Bà Ann chia sẻ.
Bà Ann rất muốn quay trở lại Việt Nam đón Tết

Người nước ngoài ở Việt Nam tất bật chuẩn bị đón Tết
Gia đình vợ chưa cưới của Michael - người Ireland nằm trên con phố Lạc Long Quân sớm đã ngập tràn sắc hoa ngày Tết khiến anh vô cùng hào hứng. Đây là năm thứ 2 Michael có dịp được đón Tết cổ truyền Việt Nam. Tết năm ngoái là một trải nghiệm vô cùng thú vị của Micheal khi được tự tay gói bánh chưng cùng gia đình vợ chưa cưới của mình. Micheal chia sẻ: “Điều khiến mình ấn tượng nhất với Tết cổ truyền Việt Nam đó là bữa cơm tất niên đầm ấm, đầy đủ mọi thành viên trong gia đình. Khoảnh khắc giao thừa thật thiêng liêng khi mọi người thắp hương thờ cúng tổ tiên, trao cho nhau những lời chúc an lành”.
Một cái Tết nữa lại đến gần, Micheal cùng gia đình vợ chưa cưới cũng đã chuẩn bị tươm tất, đầy đủ. Có cành đào, mứt Tết do chính tay anh lựa chọn. Hai người đã lên kế hoạch thăm người thân, bạn bè và đặc biệt sẽ cùng nhau ngắm pháo hoa đêm giao thừa.

Micheal chụp ảnh ở Văn Miếu dịp Tết 2012

Saysaphone đến từ nước bạn Lào, lấy vợ và sinh sống ở Việt Nam được 3 năm bồi hồi chia sẻ: “Ba năm được đón Tết cổ truyền Việt Nam, mình thấy bất ngờ trước những phong tục truyền thống vẫn còn được lưu giữ trong cách đón Tết của người Việt. Tết cổ truyền Việt Nam giống Tết té nước của Lào ở chỗ trong những ngày Tết, các gia đình quây quần bên nhau, đây là dịp để con cháu ở xa về sum họp trong không khí thật đầm ấm, vui tươi”. Saysaphone cho biết anh bị… nghiện món bánh chưng. Chiếc bánh dẻo thơm cùng vị béo ngậy của miếng thịt mỡ nằm gọn gàng trong nhân đỗ xanh ăn kèm với dưa hành đã khiến hương vị Tết cổ truyền của Việt Nam đọng lại sâu sắc trong anh bạn người Lào dễ mến.

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Sáng kiến (hay tối kiến) chống tiêu cực trong ngành y


Sáng kiến (hay tối kiến) chống tiêu cực trong ngành y


CỠ CHỮ 


Việc chống tiêu cực trong ngành y xem ra không quá khó. Cũng giống như tiêu cực trong các ngành khác, nó bắt đầu bằng việc các từ bỏ ngay ý niệm khởi nguồn rằng “lương quá thấp”, và vì thế hãy vị tha cho tiêu cực vì đó là chuyện cực chẳng đã.

Thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay là thị trường tự do, người lao động có trình độ không nhất thiết phải làm trong các cơ quan hay tổ chức của nhà nước để nhận
đồng “lương quá thấp”. Nếu họ thực sự có trình độ chuyên môn, họ có thể kiếm
được việc làm với mức lương cao hơn ở bên ngoài nhà nước để không phải nhận “lương quá thấp”.

Những người lao động có trình độ chuyên môn thấp hơn sẽ phải làm ở các nơi có thu nhập thấp hơn. Thí dụ làm kỹ sư máy tính thì lương cao hơn làm thợ may hoặc làm thợ xây. Đó là quy luật của thị trường, dù muốn hay không.

Ngành y còn dễ hơn nhiều so với các cơ quan hành chính nhà nước khác. Hiện nay quá trình tư nhân hóa ngành y đang diễn ra nhanh, bệnh viện tư nhân mọc lên nhiều. Cán bộ y tế giỏi có thể chuyển ra làm trong các bệnh viện tư, và vì thế không cần phải làm với mức “lương quá thấp” trong hệ thống bệnh viện công.

Thế nhưng đến nay nhiều bác sĩ giỏi vẫn không chuyển hẳn ra làm ở bệnh viện tư. Lý do không phải là họ thích mức “lương quá thấp” mà vì nhiều khi “lương quá thấp” cộng với tiền phong bì còn cao hơn nhiều so với tiền lương do các bệnh viện tư trả.

Cho nên để chống tiêu cực tận gốc, thì phải đoạn tuyệt ngay với khái niệm “lương quá thấp”. Không có chuyện dựa vào mức lương thấp để hợp lý hóa chuyện nhận phong bì. Nếu ngành y thực sự muốn chống tiêu cực một cách quyết liệt (điều mà rõ ràng là không có thật), thì bất kỳ cán bộ y tế nào vòi tiền hoặc nhận tiền của bệnh nhân sẽ phải bị đuổi khỏi ngành y, bị tước giấy phép hành nghề vĩnh viễn.

Nếu làm được thế, thì việc còn lại chỉ là phát hiện tiêu cực. Đương nhiên việc này không dễ dàng như lời hiệu triệu của bà Tiến là đi chụp ảnh bác sĩ nhận phong bì. Không ai dại vừa đi đưa phong bì vừa chụp hình, vì như thế ngay cả khi bác sĩ không biết thì người đi đưa phong bì cũng dễ bị khép vào tội đưa hối lộ khi đi tố cáo. Thế nhưng sẽ có nhiều cách tinh tế hơn để làm, và người dân, nếu thực sự thấy sự nghiêm túc của lãnh đạo ngành y, sẽ giúp bà phát hiện được các bác sĩ nhận phong bì, không cách này thì cách khác.

Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013

'Nếu Đảng không có liều thuốc mạnh, suy thoái còn ghê gớm'


'Nếu Đảng không có liều thuốc mạnh, suy thoái còn ghê gớm'

"Đây là giai đoạn khó khăn, cam go nhất của Đảng trong hơn 80 năm hoạt động. Điều nguy hiểm là những khó khăn đó không đến từ bên ngoài", trung tướng Nguyễn Quốc Thước trao đổi với VnExpress nhân ngày 3/2.
>Cử tri muốn biết rõ số cán bộ thoái hóa, biến chất'Niềm tin với Đảng đang bị thách thức

- Trả lời báo chí nhân dịp năm mới, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cho rằng niềm tin với chế độ đang bị thách thức và suy giảm. Ông nghĩ sao về ý kiến của Chủ tịch nước?
- Đây đúng là giai đoạn khó khăn, cam go nhất của Đảng. Khó khăn không đến từ bên ngoài mà là từ bên trong, đây mới là điều cực kỳ nguy hiểm. Năm 1945, tình thế ngàn cân treo sợi tóc nhưng đó là khó khăn từ bên ngoài, toàn đảng, toàn dân đã nhất trí bảo vệ thành quả cách mạng. Đến thời cải cách ruộng đất, nhiều đảng viên bị xử lý oan nhưng toàn Đảng thấy được vấn đề và dám nhận trách nhiệm. Đồng chí Trường Chinh thôi chức Tổng bí thư, người trực tiếp thực thi chính sách cải cách ruộng đất bị cách chức...
Hiện nay, tình trạng cán bộ đảng viên tham nhũng, lãng phí, suy thoái đạo đức, lối sống đã là vấn đề mang tính phổ cập. Nếu Đảng không có liều thuốc mạnh thì sự suy thoái còn ghê gớm hơn.
- Nghị quyết Hội nghị trung ương 4 khóa XI đã triển khai được một năm nhưng tính hiệu quả của cuộc vận động đang bị hoài nghi do "không xử lý kỷ luật ai". Quan điểm của ông thế nào?
- Nghị quyết trung ương 4 đã nhận định sự suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang uy hiếp, đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng. Sau khi có nghị quyết trung ương 4, toàn Đảng toàn dân kỳ vọng lớn nhưng không có nghĩa là sau một năm kiểm điểm đã giải quyết được ngay. Mức độ uy hiếp đến sự tồn vong nghĩa là bệnh nan y, trầm kha. Bệnh nặng thì phải có nhiều loại thuốc, liều thuốc phải mạnh; điều trị nhiều đợt, lâu dài, bền bỉ. Còn kỳ vọng đã giải quyết được ngay vấn đề là ảo tưởng, không hiểu được bản chất.
Theo tôi, ý kiến khác nhau là bình thường, một vấn đề lớn thì mọi thứ không đồng nhất được hết. Nhưng mà nếu nói là việc kiểm điểm đạt yêu cầu thì tôi chưa đồng ý. Sau đêm công bố kết quả hội nghị trung ương 6, tôi nhận được điện của thân hữu, bạn bè, các nguyên lãnh đạo, cán bộ lão thành từ Nam chí Bắc. Nhiều ý kiến cho rằng kết quả hội nghị "không đạt yêu cầu".
Hơn 60 năm theo Đảng, tướng Thước cho rằng, đây là giai đoạn khó khăn, cam go nhất đối với Đảng. Ảnh: Nguyễn Hưng.
Hơn 60 năm theo Đảng, tướng Thước cho rằng, đây là giai đoạn khó khăn, cam go nhất đối với Đảng. Ảnh: Nguyễn Hưng.
- Hiện có hai luồng ý kiến, thứ nhất nghiêng về kiểm điểm gắn với xử lý kỷ luật để làm gương, thứ hai nghiêng về là kiểm điểm để cán bộ đảng viên tự nhận thức, sửa chữa. Ông ủng hộ quan điểm nào?
- Tôi cho cả hai luồng ý kiến đều có phần đúng và chưa đúng. Một vũ khí của Đảng tự phê bình để nhận thức của cán bộ, đảng viên chuyển hóa. Nhưng nếu người đó không nhận thức đúng, không nhận thức đủ thì phải có phê bình. Hai vế này phải đi đôi và lấy vế tự phê là chuẩn mực đầu tiên.
Theo tôi kiểm điểm mà không đúng mục đích, yêu cầu thì phải đấu tranh và tiến tới kỷ luật. Mục đích kiểm điểm là sửa chữa vươn lên nhưng nếu không làm được thì phải kỷ luật vì kỷ luật cũng là một hình thức để tự sửa chữa.
- Theo ông, cần phải làm gì để nghị quyết trung ương 4 mang lại hiệu quả thực chất và lấy lại niềm tin cho người dân?
- Để đạt được mục tiêu này, trước hết là nếu Đảng có khuyết điểm thì phải nhận. Nếu cần phải kỷ luật cán bộ để giáo dục và bảo vệ sự trong sáng của Đảng thì cần phải làm. "Thượng bất chính, hạ tắc loạn" - nhà dột thì phải sửa từ nóc - cả nước mà có vấn đề thì chắc chắn phải xuất phát từ trung ương.
Trung ương hãy nghe hết các ý kiến của người dân. Ngoài kênh chính thống thì phải nghe thông tin từ nhiều kênh, từ lão thành cách mạng, thanh niên, sinh viên, nhà kinh tế, giới trí thức - khoa học... để xem mọi người đánh giá như thế nào, suy nghĩ ra sao để tiếp thu lại và từ đó xem lại những việc mình làm đã đạt hay chưa. Chưa đạt thì hãy làm lại, như thế thì mới đúng theo tinh thần nghị quyết: Kiểm điểm một cách triệt để. Cấp trung ương mà làm rõ ràng thì các cấp dưới cũng sẽ rõ ràng, cụ thể theo.
Tôi muốn nhấn mạnh lại là nguy cơ trực tiếp chính là không phải vấn đề bên ngoài mà sợ nhất trong Đảng không nhận thức đúng, không nêu cao ngọn cờ tiên phong trong đấu tranh phê và tự phê. Từ lúc tôi theo cách mạng đến giờ, không khi nào lực lượng thù địch không chống phá ta. Trong Đảng, nếu xử lý nghiêm túc những người không đủ đạo đức, tư cách, không đủ tiêu chuẩn thì thế lực bên ngoài mới gớm tay, còn không thì thế lực đó càng có cơ hội để chống phá.
- Vừa qua, Ban Nội chính đã được tái lập với chức năng là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Ông kỳ vọng gì vào cơ quan này?
- Tham nhũng hiện nay không chỉ là vấn đề lợi ích nhóm mà đã len lỏi khắp nơi, đan xen chằng chịt. Theo tôi, đưa Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng về trực thuộc Bộ Chính trị là quyết định đúng, khôi phục hai ban Nội chính và Kinh tế là hoàn toàn chính xác. Ban Nội chính có vị trí quan trọng trong Đảng nên cần phải có. Nhưng tình hình Đảng ta bây giờ, Ban Nội chính phải có người quyết liệt, dám xả thân cho Đảng. Ông Nguyễn Bá Thanh có nhiều dư luận ủng hộ và có lẽ cũng là người có thể gửi gắm được.
Nguyễn Hưngthực hiện
Theo Vnexpress

Hội An là điểm đến ưa thích nhất


Hội An là điểm đến ưa thích nhất

Wanderlust, tạp chí du lịch có tiếng của Anh, ngày 31.1 công bố TP.Hội An được độc giả tạp chí bầu chọn là thành phố yêu thích hàng đầu thế giới.

Trong lễ trao giải được tổ chức ở thủ đô London (Anh), bà Lyn Hughes, đồng sáng lập và hiện là Tổng biên tập Wanderlust, đã trao giấy chứng nhận TP.Hội An được nhận giải vàng mục bầu chọn các thành phố cho Tham tán Đại sứ quán Việt Nam tại Anh Lê Thị Thu Hằng.
Bà Lyn cho biết năm nay có 976 thành phố được bầu chọn. Du khách đánh giá Hội An là một thành phố xinh đẹp và rất dễ thương với những bãi biển và phong cảnh hấp dẫn. Đứng sau Hội An là Cusco (Peru), tiếp đó là Kyoto (Nhật Bản).
TTXVN

Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

Khủng hoảng và niềm tin

Khủng hoảng và niềm tin 



Thế nhưng bức tranh kinh tế của Việt Nam, dù không tươi sáng như hồi 5 năm trước, vẫn không phải là một bức tranh đầy màu tối.  Việt Nam vẫn là một quốc gia đang phát triển có nhiều tiềm năng và được thế giới nhìn nhận là có nhiều nền tảng tốt để phát triển. Việt Nam vẫn có nhiều ngành nghề có sức cạnh tranh cao, đặc biệt là các ngành liên quan đến nông nghiệp và thuỷ, hải sản. Năm 2012 là một năm khó khăn nhưng kim ngạch xuất khẩu 11 tháng đầu năm đã đạt 104 tỷ USD, tăng 18,4% so với cùng kỳ  năm 2011. Nhiều hãng sản xuất lớn và các quỹ đầu tư thị trường mới nổi vẫn coi Việt Nam là một điểm đến sáng giá.

Nhìn thẳng vào sự thật, lịch sử Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ cam go hơn rất nhiều lần so với hiện nay. Chỉ cần tính trong vòng 100 năm trở lại đây, Việt Nam đã từng kinh qua những giai đoạn cực kỳ khó khăn - từ đất nước bị ngoại bang xâm lược và đô hộ, kinh tế kiệt quệ làm hàng triệu người bị chết đói, chiến tranh triền miên giữa hai miền Nam - Bắc, chiến tranh biên giới khốc liệt ở phía Bắc với Trung Quốc, chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và chống diệt chủng ở Campuchia, tới giai đoạn đầu của cải cách Đổi Mới với lạm phát phi mã lên tới 300%-400% trong nhiều năm liền.

Trải qua nhiều thách thức như vậy, dân tộc Việt Nam vẫn vượt qua, tồn tại, hồi sinh, và thịnh vượng. Những thách thức liên tục trong lịch sử đã định hình dân tộc Việt Nam với tư cách là một dân tộc không chịu khuất phục trước sự đe doạ, trước bạo lực, trước bất công, trước sự chèn lấn của ngoại bang, và trước các khó khăn to lớn tới mức có thể đánh gục những trái tim không kiên định. Việt Nam không phải là một dân tộc run rẩy trước sợ hãi, dù đó là nỗi sợ vô hình hay có thật.

Các giá trị này vẫn còn đó, dù trong những khoảnh khắc nhất định của lịch sử, nó có thể bị phủ mờ bởi các lớp bụi của lòng tham ngắn hạn, của sự mê muội nhất thời, của các hạn chế về hiểu biết, hoặc của những sai lầm về lựa chọn lối đi. Nói như cách nói của Roosevelt hồi 80 năm trước, những thách thức về kinh tế của ngày hôm nay là những thách thức do chính chúng ta tạo ra, từ những sai lầm của chính chúng ta, dù “chúng ta” được hiểu là nhà nước, doanh nghiệp, người tiêu dùng, hay bất kỳ một cá nhân nào.

Những sai lầm này có thể nhỏ nhặt như việc thiếu quan tâm giáo dục con cái về giá trị và lối sống khiến cho lớp trẻ dễ lạc lối trong một thế giới toàn cầu hóa, từ hành động ném rác xuống đường góp phần gây ngập lụt đô thị, đánh cá bằng roi điện góp phần làm môi trường bị tàn phá, sử dụng quá mức thuốc trừ sâu khiến cho sản phẩm nông nghiệp của quốc gia bị coi rẻ, bất chấp luật giao thông khiến tai nạn ở Việt Nam cao nhất nhì thế giới, đến những việc nghiêm trọng hơn như hành động chặt phá huỷ hoại rừng đầu nguồn của các doanh nghiệp làm gỗ, xây dựng các công trình thuỷ điện tràn lan và thiếu chất lượng của các doanh nghiệp năng lượng, lợi dụng kẽ hở quản lý để đầu cơ, tệ nạn ăn cắp tiền của giới tài chính - ngân hàng, thủ đoạn rút ruột công trình của giới xây lắp, tập quán kinh doanh quy hoạch và chạy dự án của giới bất động sản, nạn tham nhũng và sách nhiễu của quan chức nhà nước…danh sách này có thể viết dài tưởng chừng như vô tận.

Uy tín chính trị, quyết tâm chân thành, và hành động quyết đoán

Thế nhưng, cũng theo cách nói của Roosevelt, vì chúng là các lỗi lầm của chúng ta, bản thân chúng ta có thể khắc phục được nếu có lòng tin và sự quyết đoán chính sách. Lòng tin vào tính khả thi của thay đổi theo hướng tốt hơn sẽ làm chúng ta không rơi vào bi quan, tiêu cực, lún sâu vào các hành vi huỷ hoại bản thân và người khác, hoặc các hành vi cơ hội, trục lợi và đánh bài chuồn. Lòng tin vào tính khả thi của thay đổi theo hướng tốt hơn cũng làm chúng ta có thêm nhiệt tình, quyết tâm, và nỗ lực hơn để tạo ra chính sự thay đổi đó. Nói cho cùng, khoa học kinh tế hiện đại ngày nay cũng cho rằng kỳ vọng của người tham gia thị trường sẽ dẫn tới kết quả tương ứng của nó. Kỳ vọng thay đổi làm cho kết quả thay đổi theo.

Nhưng lòng tin không tự dưng mà có. Nó không đến từ một bài báo hay, một phát biểu hùng hồn, một bài giảng về đạo đức và triết lý. Có thể những thứ này sẽ tạo nên một tâm trạng phấn khởi trong giây lát, nhưng rồi sẽ tàn lụn nhanh chóng.

Lòng tin chỉ đến từ quyết tâm chân thành của những người lãnh đạo đất nước muốn hướng dân tộc tới một sự đổi thay thực sự. Không có sự thực tâm này, người dân sẽ chỉ như một bầy cừu lạc lối. Không có sự thực tâm này, ngôi nhà sẽ dột từ nóc, và mọi nỗ lực cá nhân từ bên dưới sẽ vô ích. Không có sự thực tâm này, lòng người sẽ luôn luôn nghi kỵ và chia rẽ. Không có sự thực tâm này, dân tộc sẽ không được ngoại bang kính nể. Không có sự thực tâm này, đất nước sẽ không có tương lai. Và điều này sẽ không thay đổi cho đến khi những người lãnh đạo đất nước có được quyết tâm chân thành ấy.

Nhưng chỉ dừng lại ở quyết tâm muốn thay đổi thôi là không đủ. Theo cách nói của Roosevelt, sự phục hưng không chỉ dựa trên những thay đổi về đạo đức, mà nó còn phải dựa trên hành động thực tế. Một quyết tâm mà không đi kèm với hành động thực tế thì chỉ là một lời nói suông không thực lòng.

Đưa Việt Nam ra khỏi vũng lầy hiện nay không phải là một nhiệm vụ bất khả thi. Ngược lại, tất cả các vấn đề này đều có giải pháp. Khủng hoảng kinh tế không phải là một câu chuyện xa lạ với loài người. Nó đã xảy ra nhiều, ở khắp nơi trên thế giới, trong mọi hình thái kinh tế mà loài người đã trải qua. Việt Nam không phải là ngoại lệ, vì thế các vấn đề của Việt Nam hiện nay không phải là một quái tượng chưa từng tồn tại và không ai giải quyết được. Thực tế là các giải pháp này đã được bàn đến nhiều, trong giới chuyên gia, trong các cơ quan tư vấn, từ các tổ chức hỗ trợ quốc tế tới cả các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước Việt Nam.

Để biến các giải pháp thành hiện thực, giống như Roosevelt đã triển khai New Deal để đưa nước Mỹ thoát khỏi cuộc Đại Khủng Hoảng hồi năm 1933, sẽ cần thêm một yếu tố nữa mà Roosevelt đã có, và vì thế không cần nói ra. Đó là uy tín chính trị cần thiết để đảm nhiệm vai trò người dẫn dắt, để thuyết phục và cổ vũ toàn xã hội đi theo. Để thống nhất được các nhóm lợi ích chứ không phải tiêu diệt chúng. Để tạo sự đồng thuận cần thiết trong hệ thống chính trị nhằm biến các giải pháp thành chính sách, và từ chính sách đi vào đời sống để xoay chuyển hiện thực. Uy tín chính trị của Roosevelt đủ mạnh để giúp ông làm cho Quốc hội và công chúng Mỹ tin vào quyết tâm chân thành của ông đối với vận mệnh của nước Mỹ và ủng hộ các chính sách mà ông đưa ra. Không có uy tín chính trị này, quyết tâm của Roosevelt, dù chân thành, cũng chỉ là một ý chí cá nhân và không dẫn tới điều gì.

Ở Việt Nam, lòng tin của công chúng đối với Đảng CS và nhà nước đang bị xói mòn, như chính Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng nhiều quan chức cao cấp khác đã nhận xét. Uy tín chính trị bị xói mòn này làm giảm khả năng của nhà nước trong việc tạo ra các xoay chuyển cần thiết trong đời sống xã hội. Uy tín này phải được khôi phục và nó chỉ được khôi phục khi người dân nhìn thấy các động thái quyết đoán của Đảng CS và nhà nước liên quan đến tư cách, trình độ, đạo đức, phẩm chất, tính chuyên nghiệp, tinh thần phụng sự đất nước, và cái nhìn viễn kiến của bộ máy lãnh đạo.

Phải từ việc khôi phục uy tín này, giới lãnh đạo mới có thể vực dậy lòng tin của người dân về tính khả thi của sự đổi thay tích cực. Đi kèm với lòng tin này, các quyết sách thực tế của nhà nước nhằm thẳng vào các vấn đề gai góc nhất đang tồn tại mới có thể giúp Việt Nam thoát khỏi trạng thái trì trệ và quay trở lại con đường phát triển. Chìa khoá để đi vào con đường này đang nằm trong tay những người đang nắm vận mệnh của dân tộc.