Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2012

Cách nghiên cứu động đất làm dân sợ




Đánh giá động đất cho giai đoạn tiền dự án và thiết kế kỹ thuật là rất thiếu dữ liệu, bởi vậy thiếu độ tin cậy. Cách nghiên cứu động đất sau khi đã xảy ra hàng chục trận động đất ở khu vực Sông Tranh lại càng đáng sợ hơn.
Cách nghiên cứu động đất làm dân sợ
Nguy cơ "tai biến" của thuỷ điện Sông Tranh 2 là rất lớn. Ảnh: T.L
Dân không an tâm

Thông cảm với các nhà khoa học về sự thiếu thiết bị và thiếu kinh phí, nhưng với việc thiếu chuyên gia kiến tạo địa chấn ở Viện Vật lý địa cầu và không có cách tiếp cận nghiên cứu một cách hợp lý đã làm cho cán bộ và nhân dân huyện Bắc Trà My thiếu tin tưởng vào các kết luận của các nhà khoa học.

Nhân dân cảm nhận trận động đất ngày 17. 9 mạnh hơn trận động đất ngày 3. 9. Nhưng đó là cảm giác và rõ ràng không chính xác. Bởi vậy sơ đồ đẳng chấn và tâm chấn vừa được xây dựng bằng số liệu thăm dò trong dân chúng ở một thời gian ngắn trong một khu vực có địa hình phân cắt, phân bố dân cư không đồng đều là khó có độ tin cậy... Đến bây giờ, sau hàng chục trận động đất mà vẫn chưa xác định được chính xác cấu trúc chấn tiêu, vị trí chấn tiêu nằm ở đâu, trong loại đá gì? liên quan với đứt gãy nào? bao nhiêu độ richter? thì quả là cán bộ và nhân dân địa phương không thể không lo lắng, không an tâm, không tin là đúng. Theo sơ đồ đường đẳng chấn dộng đất M=4,2 ngày 3.9.2012, chấn tâm đâu có rơi vào hồ chứa ST 2, phải chăng là ST 3.

 Các nhà địa chấn cho rằng, động đất ở đây là động đất kích thích do tích nước, sau một thời gian sẽ hết đi là chỉ đúng một nửa, không hoàn toàn đúng. Động đất kích thích liên quan với sự tăng lên nhanh chóng trường ứng suất đàn hồi, song ở đây còn có sự liên quan với sự khuých tán nước từ hồ chứa đến độ sâu chấn tiêu, có sự liên quan của đứt gãy đang hoạt động với động đất kích thích hồ chứa.

Có ý kiến lấy trường hợp động đất ở hồ Hòa Bình áp đặt vào đây chưa chắc đã đúng. Ở hồ chứa Koyna - nằm cách thành phố Pombay - Ấn Độ 500km - xảy ra các trận động đất M>=4.0 vào những năm 1967, nhưng đến tháng giêng năm 1994 lại tiếp tục xảy ra động đất với M>=5.0. Cũng không có cơ sở khoa học nào để bác bỏ trong tương lai sẽ xảy ra động đất với magnitude 6, 5 độ richter. Trong dự báo động đất vừa qua, các tác giả đã không đánh giá đúng vai trò của các đứt gãy đang hoạt động, đặc biệt là đứt gãy Đ - T Bắc Trà My và hệ thống đứt gãy TB - ĐN và B - N giao cắt với nó.

Đặc biệt lại đưa đứt gãy Tam Kỳ - Phước Sơn và đứt gãy Tà Vi - Hưng Nhượng để lý giải nguồn gốc động đất ở đây lại càng không đúng, chỉ làm cho nhân dân thêm lo lắng. Bản chất các trận động đất Sông Tranh vẫn là động đất kích thích hồ chứa (reservoir - induced seismisity), có phức tạp hơn khi liên quan với các mặt đứt gãy đang hoạt động. Nhưng không phải là động đất kiến tạo. Các trận động đất liên tục xảy ra vừa qua thực chất là một quá trình giải phóng năng lượng, giải tỏa ứng suất, đóng vai trò giảm thiểu cường độ phá hủy. Khoảng lặng thời gian có thể mới là một nguy cơ đáng sợ. Các trận động đất vừa qua có thể chỉ là tiền chấn (foreshock), động đất cực đại (mainshock) chưa đến. Bởi vậy không thể xem các trận động đất ở đây là dư chấn (aftershock).

Sức ép lên các nhà khoa học
Trong cơ chế thị trường, sức ép của chủ đầu tư, chủ doanh nghiệp lên các nhà khoa học, kỹ thuật là rất lớn. Hãy tính toán, trong trường hợp nhà máy ngừng hoạt động, doanh nghiệp sẽ mất nhiều nghìn tỉ đồng. Bởi

vậy không ai muốn nghe “khuyết tật” của công trình. Khi nghiên cứu được tiến hành trên kinh phí của doanh nghiệp, các nhà khoa học phải có bản lĩnh mới đứng được trên đôi chân của mình. Thật ra, các tuyên bố an toàn liên tục của các nhà khoa học và cơ quan quản lý nhà nước vừa qua là rất thiếu thận trọng.

 Nguy cơ “tai biến” của TĐST 2 là rất lớn. Nguy cơ gián tiếp là làm méo mó các dữ liệu khoa học và không quan tâm đến hậu quả. Nguy cơ trực tiếp là động đất phá hủy và trôi đập, sóng thần hủy diệt. Nguy cơ ở đây nằm ở chỗ kết cấu địa chất công trình nền móng kém bền vững bao gồm thành phần đá, đứt gãy đang hoạt động cùng với đới cà nát và sự biến đổi của chúng dưới tác động của nước hồ chứa. Động đất là yếu tố cuối cùng đưa sự kém bền vững của nền móng công trình trên đi vào thảm họa. Cán bộ địa phương Bắc Trà My nói rất đúng rằng, sự lo lắng ở đây là về tai biến kép - động đất và trôi đập. Nhân dân BắcTrà My có quyền đòi hỏi doanh nghiệp phải có quy trình điều tiết TĐST 1, 2 và 3 để giảm thiểu nguy cơ tai biến, phải có kịch bản trôi đập Sông Tranh 2, di dân ra khỏi vùng có khả năng tai biến.

Dù sao thì cũng có thể tự an ủi rằng, TĐST 2 chưa phải là Kobe hay Chendai.
 Vụ các hộ dân kiện EVN tích nước hồ thủy điện Sông Tranh 2 gây ngập nhà: Người dân lại thua kiện

Ngày 20.9, TAND tỉnh Quảng Nam mở phiên tòa phúc thẩm vụ án các hộ dân ở huyện Nam Trà My đòi Tập đoàn Điện lực VN (EVN) bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do việc tích nước của thủy điện Sông Tranh 2 gây nên. Các hộ dân gồm Thái Việt Hà, Phạm Đức Hội, Hoàng Ngọc Trác, Ngô Tấn Tiến (cùng trú tại xã Trà Dơn, huyện Nam Trà My) kiện dân sự đối với EVN về hành vi tích nước gây ngập làm hư hỏng tài sản, yêu cầu EVN bồi thường từ 82-138 triệu đồng cho mỗi hộ. Trước đó, TAND huyện Nam Trà My đã xử sơ thẩm tuyên EVN không có trách nhiệm bồi thường cho các hộ dân nói trên vì lỗi thuộc về nguyên đơn do không chịu di dời tài sản. Tại phiên phúc thẩm. HĐXX phúc thẩm đã bác kháng cáo của các hộ dân và giữ nguyên các bản án sơ thẩm, với lý do EVN không có lỗi và các hộ dân không đưa ra được chứng cứ thiệt hại.       T.T.Thư
TSKH Phan Văn Quýnh


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm ơn bạn đã góp ý, xin chân thành cảm ơn !