Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012

Cổ vật dưới biển miền Trung


Cổ vật dưới biển miền Trung

Phương án khai quật cổ vật trong con tàu bị đắm tại thôn Châu Thuận, xã Bình Châu, huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi đang chờ ý kiến phê duyệt của các cơ quan chức năng. Đây được đánh giá là kho cổ vật lớn của miền Trung kể từ cuộc khai quật tại vùng biển Cù Lao Chàm, TP Hội An - Quảng Nam 15 năm trước

  Đối với những người trực tiếp tham gia cuộc khai quật con tàu cổ tại Cù Lao Chàm từ năm 1977-1999, ký ức về 8 đợt tránh bão trong 16 tháng ròng trên biển vẫn còn sống động như chính chất liệu dân gian tươi sáng của đồ gốm Việt Nam thế kỷ XV được tìm thấy trên tàu. Trong 150 chuyên gia nghiên cứu khảo cổ học, kỹ thuật viên và thủy thủ thuộc 13 quốc gia tham gia cuộc khai quật, họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ, cán bộ Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Nam (cũ), là người đầy duyên nợ với con tàu.
Nhiều cái nhất
Ngược sông Thu Bồn lên Mỹ Sơn, ngôi nhà tranh tre nứa lá của họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ có thể hình dung như chiếc ghe bầu chở đất sét xuôi trọn dòng chảy “địa văn hóa” từ Mỹ Sơn - Trà Kiệu xuống Hội An rồi ra tới Cù Lao Chàm. “Con tàu gỗ tếch ấy còn cả di cốt của 11 người, trong đó có một cô gái trẻ. Đây là lần đầu tiên phát hiện di cốt trong các cuộc khai quật dưới nước!” - ông Hỷ kể.
Lúc ấy, với tư cách là cán bộ đại diện Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Quảng Nam tham gia ban khai quật, họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ khăn gói ra “ăn nằm” cách cụm đảo Cù Lao Chàm 15 km về hướng Bắc. Việc chính là hỗ trợ công tác đo vẽ hiện vật nhưng do cơ duyên, TS Phạm Quốc Quân, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, trưởng ban khai quật, bị say sóng nên ông Hỷ được ủy nhiệm quyền trưởng ban. “Quá nhiều chuyện để làm, trong 4 năm, tôi hoàn thành được 1.500 bản vẽ” - ông Hỷ không giấu vẻ tự hào.

Họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ (bìa phải) vẽ bình tì bà khai quật được trên tàu cổ ở Cù Lao Chàm
Con tàu đắm nằm sâu dưới đáy biển 72 m, việc lặn với bình ôxy là bất khả thi. Các chuyên gia của Anh, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines, Nam Phi, Úc, Ấn Độ… phải vận dụng kinh nghiệm của ngành dầu khí để hàn chân máy khoan dưới đáy biển. Các thợ lặn phải vào trong một cái chuông chứa hỗn hợp khí oxygen và helium. Khi lặn xuống chỉ mất khoảng 30 phút nhưng từ đáy lên, phải mất cả giờ để vô bình giảm áp. Bên cạnh đó, trước khi vớt lên, các cổ vật phải được xử lý bằng nhiều biện pháp theo đúng thông số kỹ thuật.
Các chuyên gia khảo cổ dưới nước của Đại học Oxford (Anh) từng nhận định cuộc khai quật này có tầm cỡ quốc tế vì đây là lần đầu tiên Việt Nam tiến hành khai quật khảo cổ học dưới nước sâu nhất, quy mô nhất; phương tiện, thiết bị hiện đại nhất; tốn kém nhất; gian khổ và lâu dài nhất nhưng cũng thu được kết quả to lớn nhất.
Quá nhiều điều kỳ diệu
Họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ cho biết có khá nhiều hiện vật độc bản trong hơn 240.000 đồ sứ, kim loại đã được xử lý kỹ thuật sau cuộc khai quật. Trong đó, một cổ vật độc bản là chiếc nậm rượu hình rồng từng được bán đấu giá tại Mỹ và tốn khá nhiều giấy mực trong giới khảo cổ Việt Nam nhiều năm  trước đây. Hiện tất cả các độc bản này đều được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, còn ông Hỷ thì có chúng qua các bản vẽ, một sự hiện diện đầy đủ nhất của các dòng gốm men Việt Nam trong thế kỷ XV như ấm đầu phượng, ấm đầu gà, ấm quả bầu, đĩa lớn trang trí hoa văn tam thái, tượng phụ nữ quý tộc…

Một bình gốm được vớt lên từ con tàu đắm tại Cù Lao Chàm
15 năm qua, họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ lưu giữ 1.500 bản vẽ như bảo vật, lâu lâu chỉ “hé” cho giới sinh viên mượn làm luận văn hoặc “đánh” trên báo Tết vài món cho thỏa chí. Theo kết quả phân tích, có 18 loại hình chính, hơn 160 loại phụ và hàng trăm kiểu khác nhau. Từ dòng gốm hoa lam, gốm vẽ nhiều màu, gốm men ngọc, men xanh dương sẫm đến gốm trắng mỏng văn in và gốm sành. “Bộ sưu tập này có thể gọi là chuẩn để giám định loại hình và niên đại cho các sưu tập gốm Việt Nam” - ông Hỷ nhận định.
Không tận mắt thấy hoa văn trang trí trên hiện vật cổ nhưng những bản vẽ của họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ cho thấy quá nhiều điều kỳ diệu. Đó là nhà cửa, chùa tháp, cung điện, cầu vồng, sông nước, mây trời… đến các tích tôn giáo. Vô khối đề tài về con người, từ thần tiên, phụ nữ tóc dài, những nhân vật quý tộc với lầu son gác tía đến cụ già câu cá, chèo thuyền, chiến binh, người quản tượng, trẻ em nô đùa hay cưỡi trâu thổi sáo, trai gái yêu đương…

Thế giới động vật cũng được thể hiện vô cùng sinh động trên gốm như rồng bay phượng múa, voi, hổ, ngựa, trâu, bò, khỉ, hươu. Muông chim từ đại bàng đến vẹt, chích chòe, chào mào, sáo, bói cá, vịt, thiên nga đến các loài rắn, rùa, cá chép, cá mang, trê, tôm, cua, ếch, nhái, dơi, chuồn chuồn và cả ong, bướm… Bên cạnh đó, còn có hàng ngàn hiện vật trang trí theo đề tài hoa lá trên gốm với những mai, sen, cúc, trúc, mẫu đơn, các loại cây cổ thụ...
Nguồn tư liệu quan trọng
Họa sĩ Nguyễn Thượng Hỷ cho biết hầu hết mô típ trang trí trên cổ vật đều phản ánh đời sống sinh hoạt của quê hương Việt Nam. Có lẽ vì thế, với khối lượng hiện vật khổng lồ, sưu tập gốm trên tàu cổ Cù Lao Chàm đã đóng góp nguồn tư liệu quan trọng vào việc nhận thức đồ gốm men Việt Nam trong lịch sử.

Bài và ảnh: QUỐC HẢI
Nguồn cấp cho blogs : Nguyễn Đức Minh

CỔ VẬT DƯỚI BIỂN MIỀN TRUNG



Tường trình của biển

Ngoài việc chứa đầy đủ nhất dòng gốm men Việt Nam trong thế kỷ XV, con tàu đắm ở Cù Lao Chàm, TP Hội An - Quảng Nam, còn cung cấp nhiều thông tin khá quan trọng

Các loại bình tì bà được vớt lên từ con tàu đắm ở Cù Lao Chàm
Hơn 240.000 cổ vật đã được chia làm 5 phần cho các cơ quan, đơn vị trong và ngoài nước theo thỏa thuận hợp tác khai quật. Riêng Hội An, nơi có con tàu đắm, không có phần nào nhưng bản tường trình về kết quả khai quật tại Cù Lao Chàm đã minh chứng cho bề dày lịch sử văn hóa của di sản văn hóa thế giới này.
Nhìn từ bảo tàng
Những ngày này, các nhân viên Bảo tàng Gốm sứ mậu dịch Hội An thật bận rộn vì phải chuẩn bị vật dụng để di dời cổ vật trưng bày lên tầng cao trước mùa mưa lụt.
Xây dựng từ năm 1995, bảo tàng đang lưu giữ trên 430 hiện vật gốm sứ có niên đại từ thế kỷ VIII - XVIII. Hầu hết các hiện vật là gốm sứ mậu dịch có nguồn gốc từ Trung Cận Đông, Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam…, minh chứng vai trò quan trọng của thương cảng Hội An trong mạng lưới mậu dịch gốm sứ trên biển vào các thế kỷ trước, trong đó có một tủ trưng bày cổ vật khai quật được từ con tàu đắm ở Cù Lao Chàm.
Ông Nguyễn Đức Minh (*), nguyên phó giám đốc Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản Văn hóa Hội An, cho biết đợt khai quật kết thúc vào năm 1999, cũng là lúc quần thể kiến trúc Đô thị cổ Hội An được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. “Trong niềm vui ngập tràn, bảo tàng có thêm các hiện vật mới vừa khai quật để trưng bày, dù ít nhưng vô cùng giá trị” -  ông Minh hồ hởi.
Tại Bảo tàng Gốm sứ mậu dịch Hội An, du khách có thể tìm hiểu nhiều thông tin về con tàu cổ đắm ở Cù Lao Chàm. Quá trình khảo sát và khai quật được triển khai 6 đợt: 1 đợt tiền khai quật năm 1994, 3 đợt khảo sát năm 1997 và 2 đợt khai quật năm 1998 - 1999. Cuộc khai quật được tiến hành cẩn thận, tỉ mỉ theo đúng quy định của khảo cổ học, từ đó tìm thấy một cách cơ bản hình dáng và cấu trúc của con tàu được đóng bằng gỗ tếch, dài 29,4 m, rộng 7,2 m.
Nhiều khả năng tàu được đóng và xuất phát từ Thái Lan, có thủy đoàn người Thái Lan và có thể cả người Việt Nam. Hàng hóa là đồ gốm Việt Nam được sản xuất tại Hải Dương, trong đó chủ yếu là các lò gốm Chu Đậu - Mỹ Xá  khoảng giữa thế kỷ XV.
Ngoài hơn 240.000 hiện vật còn nguyên lành, hàng vạn mảnh vỡ đều được vớt lên, đánh ký hiệu và lưu trữ tại kho Bảo tàng tỉnh Quảng Nam. Ông Trần Tấn Vịnh, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Quảng Nam, cho biết nhiều bảo tàng trên cả nước đều đã có bộ sưu tập quý giá từ con tàu đắm, Bảo tàng tỉnh Quảng Nam có 5.000 đồ gốm sứ Chu Đậu. Là địa phương tìm ra con tàu đắm, Hội An cũng được hỗ trợ cổ vật từ Bảo tàng tỉnh Quảng Nam để hình thành nên bảo tàng gốm sứ mậu dịch tại phố cổ, phục vụ khách tham quan du lịch.
Bổ sung mỹ thuật dân gian
“Thật thú vị với công việc này bởi giá trị khoa học của nó. Đây là bằng chứng vô cùng sinh động để nghiên cứu về giao thương quốc tế trên biển Việt Nam trong lịch sử và lịch sử đồ gốm men Việt Nam thế kỷ XV. Theo các chuyên gia, nhiều điều chưa biết về nền mỹ thuật thời Lê Sơ cũng đã được bổ sung, đặc biệt là mỹ thuật dân gian” - ông Nguyễn Đức Minh khẳng định.
Trở về từ cuộc khai quật, ông Minh hoàn thành bản tường trình “Một số vấn đề xung quanh việc khai quật khảo cổ học dưới nước tàu đắm cổ Cù Lao Chàm (1997-1999)”. Theo ông, lúc bấy giờ, cuộc khai quật dưới sự chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc của Văn phòng Chính phủ, Bộ Văn hóa, Cục Bảo tồn  - Bảo tàng với các phương pháp hiện đại của thế giới nên kết quả thật khả quan.
Ngoài sự hiện diện đầy đủ nhất dòng gốm men Việt Nam trong thế kỷ XV, con tàu đắm còn cung cấp nhiều thông tin khá quan trọng. Trên tàu còn có một số di vật khác như đồ đồng Việt Nam, gốm sành Champa, gốm Thái Lan cùng tiền đồng và gốm Trung Quốc. Đồ gốm Thái Lan chủ yếu là sành, gồm những chiếc chum cỡ trung bình, dáng cân xứng, vai có núm ngang, 2/3 thành ngoài tráng lớp men màu nâu sẫm từ trên xuống, niên đại từ thế kỷ XIV - XVI.
Hiện vật gốm Trung Quốc là đĩa, bát hoa lam, đĩa ngọc thuộc lò Cảnh Đức Trấn, Long Tuyền, niên đại khoảng giữa thế kỷ XV. Riêng tiền đồng Trung Quốc có niên đại từ thế kỷ thứ VII đến thế kỷ XIV. Trong đó, có 4 tiền đồng thời Đường Cao Tổ (năm 621), 16 tiền đồng nhiều niên hiệu thời Tống (từ năm 961 đến năm 1101) và 3 đồng tiền thời Minh (năm 1368).
Ông Nguyễn Đức Minh cho biết theo hiệu chỉnh dendro - hiệu chỉnh vòng xoay - niên đại con tàu được giám định nằm trong khoảng cuối thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XV. Trên tàu còn có một số hạt gấc, nhãn và dẻ. Các chuyên gia cho rằng sau khi bốc hàng tại thương cảng Vân Đồn, con tàu có thể đã khởi hành vào mùa thu với khoảng 400.000 đồ gốm. Thời tiết khắc nghiệt tại vùng biển Cù Lao Chàm cùng trọng tải quá cao là nguyên nhân đắm tàu.
Nhiều cổ vật được trưng bày
Rất nhiều hiện vật từ con tàu đắm ở Cù Lao Chàm được trưng bày, giới thiệu với công chúng trong và ngoài nước. Đặc biệt, nhiều cổ vật độc bản còn được các bảo tàng tầm cỡ trên thế giới mượn trưng bày. Năm 2010, hai bảo tàng lớn của Mỹ đã mượn để trưng bày theo chủ đề “Nghệ thuật cổ Việt Nam: Từ đồng bằng ra biển lớn”.
Ông Nguyễn Chí Trung, Giám đốc Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di sản văn hóa Hội An, nhận định: “Rất nhiều cổ vật từ con tàu đắm ở Cù Lao Chàm đã được Công ty Butterfield bán đấu giá tại Mỹ cho thấy giá trị của nó. Hơn nữa, việc khai quật, khảo cổ dưới nước được tiến hành bài bản đã không chỉ bảo quản thật tốt hiện vật mà còn đáp ứng mọi yêu cầu của ngành khảo cổ dưới nước”.

Bài và ảnh: QUỐC HẢI
(*)Nguồn cấp cho blogs : Nguễn Đức Minh

Thứ Hai, 29 tháng 10, 2012

Đơn kiện thầy


'Đơn kiện thầy' ngộ nghĩnh của HS 11 tuổi

   Chuyện xảy ra vào đầu tuần tại trường Tiểu học Trí Tuệ Việt, quận Tân Bình, TP.HCM. Để động viên học trò tham gia tập văn nghệ, thầy giáo dạy nhạc Phạm Chí Dũng đã mua 30 chiếc bút tặng các em.
Tuy nhiên, do ghen tỵ vì bút của bạn Linh Chi đẹp hơn của mình, 3 bé khác đã đồng loạt viết đơn kiện.
Trong đơn, bé Trà My viết: “Con kiện thầy vì thầy thương bạn Linh Chi, thầy không thương con. Thầy rất quá đáng. Thầy không công bằng. Con ghét thầy. Ngày mai con không hát đâu. Thầy mà không thương con nữa. Trên đời này con ghét thầy nhất”.

Trong khi đó bé Mẫn viết: “Con kiện thầy vì thầy thương bạn Linh Chi hơn tụi con. Thầy không thương con. Thầy rất quá đáng. Thầy không công bằng, con ghét thầy".

Trước làn sóng phản đối của bạn bè, bé Linh Chi đã phải viết thư cho thầy cầu cứu: “Thầy ơi, mấy bạn thấy con có bút kim cương cái mấy bạn lại thấy mấy bạn có bút thường liền lấy đơn kiện thầy đó thầy. Thầy kêu mấy bạn đó thôi kiện ngay, con không muốn bị cướp bút mới".

Thầy Dũng phân trần: "Thực tình thì số bút đó tôi mua cùng loại, chỉ là khác nhau chút thôi chứ không có cái nào đắt hơn cái nào. Nhưng các em học sinh ở đây là vậy đó, 11 tuổi nhưng mà điệu lắm, cứ thấy thầy đến là quây. Chúng nó làm nũng dữ lắm nhưng xa chúng nó một ngày thì lại nhớ".

"Sau khi nhận được đơn kiện, cả đêm tôi về nghĩ lại mà cười. Chúng nó làm nũng vậy thôi nhưng sau đó thì có lẽ vì quý thầy nên vẫn đều đặn đi tập văn nghệ" - thầy cho biết thêm.
 *Yêu cầu chuyển đơn kiện này cho cơ quan...có thẩm quyền giải quyết, nếu thấy sai ở đâu sẽ xử lý tới đó !
Chuyện này thầy Dũng mệt rồi đó nha?
Theo Tiin

Thứ Năm, 25 tháng 10, 2012

Thủy điện Sông Tranh 2


Đánh giá rất cẩu thả?


Ở VN mới chỉ có Hòa Bình và Sơn La là hai công trình thủy điện lớn, khi tích nước thì có tiến hành nghiên cứu động đất kích thích trước khi tích nước hồ.
TS Lê Huy Minh
  Theo sự phân tích của GS Cao Đình Triều được Thanh Niên Online trích thuật, đập thủy điện Sông Tranh 2 nằm trong phạm vi ảnh hưởng của đới đứt gãy cấp 2 Trà My,  do vậy động đất sẽ tác động trực tiếp tới vùng hồ và đập thủy điện. Hiện tượng tích nước  gây nên động đất kích thích  sẽ xảy ra dọc theo đới đứt gãy cấp 2 Trà My và một số đứt gãy cấp 3 trong phạm vi long hồ và lân cận. Nghiên cứu của nhóm GS Cao Đình Triều có những dự báo khác biệt với mối nguy hiểm đáng lo ngại, thí dụ động đất kích thích cực đại tại khu vực lòng hồ có thể đạt cấp độ mạnh tối đa 5,5 tới 6 độ Richter. Động đất bên trong lòng hồ được dự báo lên tới 5,9 độ Richter, độ sâu tâm chấn không vượt quá 15km, trong khi khu vực đập chính và vùng hạ lưu có thể lên tới 6,1 độ Richter.
Theo báo Lao Động bản tin trên mạng ngày 4/10, ông Nguyễn Tài Sơn, Tổng giám đốc Công ty Cổ phần tư vấn xây dựng điện 1 đã chính thức thừa nhận sai sót khi kết luận trong đánh giá tác động môi trường là không có động đất kích thích ở thủy điện Sông Tranh 2. Tờ báo cũng vạch rõ là ông Nguyễn Tài Sơn đã phù phép biến tài liệu tổng hợp từ nước ngoài phục vụ hội thảo do TS địa sinh vật Lê Trần Chấn thực hiện thành kết quả nghiên cứu khoa học của thủy điện Sông Tranh 2. Sự kiện này chứng tỏ chủ đầu tư EVN đã rất cẩu thả đối với đánh giá tác động môi trường của thủy điện Sông Tranh 2.
Trả lời chúng tôi về việc thủy điện sông tranh 2 đã không tính đến động đất kích thích trước khi thiết kế và xây dựng công trình ở Bắc Trà My, TS Lê Huy Minh, Phó Viện trưởng Viện Vật lý Địa cầu nhận định:
“Ở Việt Nam mới chỉ có Hòa Bình và Sơn La là hai công trình  thủy điện lớn, khi tích nước thì có tiến hành nghiên cứu động đất kích thích trước khi tích nước hồ. Còn ở những thủy điện khác điều kiện ở Việt Nam còn khó khăn, nhiều khi Viện Vật lý Địa cầu có đề nghị nghiên cứu nhưng do hai thủy điện lớn, đặc biệt là thủy điện Hòa Bình động đất kích thích có xảy ra nhưng không lớn, thành thử những nơi khác chưa có điều kiện nghiên cứu. Thành ra khi thủy điện Sông Tranh 2 xảy ra động đất kích thích hàng loạt đã làm cho việc ứng xử nó hơi chậm chạp. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng bây giờ chúng tôi lắp đặt thiết bị nghiên cứu thì cũng chưa đến nỗi quá muộn.”
images661309_250.jpg
Đập thủy điện Sông Tranh 2. File photo.
Phản biện độc lập của nhóm GS Cao Đình Triều về tình hình động đất Thủy điện Sông Tranh 2 và đề xuất biện pháp giảm nhẹ thiệt hại đề nghị cần được tiếp tục nghiên cứu thêm để có những kết quả mang tính khẳng định. Nhóm này cũng đề xuất hợp tác quốc tế để nghiên cứu động đất kích thích tại thủy điện Sông Tranh 2, song song với việc lắp đặt hệ thống trạm địa chấn cố định nhằm theo dõi động đất từ cấp 1 độ Richter trở lên, trong quá trình điều tiết nước hồ.
Trả lời chúng tôi tối ngày 4/10, từ Hà Nội TS Lê Huy Minh, Viện phó Viện Vật lý Địa cầu nhận định:
“Cũng cần phải có một thời gian để kiểm nghiệm, một mặt nhân dân ở trong đó chưa yên tâm. Thứ hai là đập cũng cần một thời gian kiểm nghiệm thử thách dù mới vừa xử lý chống thấm xong và chưa tích nước lại lần nào cả. Tôi nghĩ rằng quan điểm chưa cho tích nước lại cũng là hợp lý, ở đập ấy gọi là không cho tích nước nhưng khi lũ về nước có thể dân lên độ cao 161 mét trong khi hiện nay mực nước chết là 140 mét. Như thế nước có thể dâng lên 20 mét nữa, đấy cũng là việc kiểm nghiệm xử lý thấm như thế nào cũng như có thể theo dõi hoạt động động đất với biến đổi mực nước hồ, nó có điều kiện để kiểm nghiệm mọi thứ. Ở đây chính phủ Việt Nam đặt ra vấn đề phải lường trước tất cả mọi thứ, tôi nghĩ là vấn đề đầu tiên đặt ra là an toàn cho người dân, coi như là tất cả mọi biện pháp đề ra phải làm sao bảo đảm tính mạng người dân là trên hết.

nguồn RFA

Thứ Tư, 24 tháng 10, 2012

Khám phá cụm đảo Cù Lao Chàm Hội An


Cù Lao Chàm


Nguyễn Đức Minh
  Rời Cửa Đại lúc 9 giờ sáng, chiếc tàu cao tốc rẽ sóng thẳng tiến hướng đông đưa chúng tôi đến “thiên đường du lịch xanh” cù lao Chàm (thuộc xã Tân Hiệp, TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam). Từ phố cổ Hội An theo thuyền du lịch qua những xóm làng dọc theo sông Thu Bồn rồi ra Cửa Đại thơ mộng sẽ thấy Cù lao Chàm ẩn hiện phía xa xa với một vẻ đẹp lung linh huyền ảo.Gió phả mát rượi vào mặt mang theo hương vị mặn của biển khiến ai cũng thấy sảng khoái. Xa xa, màu xanh um của rừng nối liền với màu xanh ngọc của nước biển bằng dải cát trắng lấp lánh ánh bạc. Nằm rải rác quanh mép biển là những tảng đá to đủ các hình thù nhô lên khỏi mặt nước, khơi gợi trí tưởng tượng của du khách.

  Tàu cập bến Bãi Làng, chúng tôi đặt chân lên đảo trong cái nắng vàng ươm, mát dịu. Cù lao Chàm hiện ra, vẹn nguyên vẻ hoang sơ, tinh khiết. Ngay sát cầu cảng là một phiên chợ nhỏ. Người dân bày ra những xô, chậu, thúng với đủ loại hải sản tươi rói như ốc hương, mực lá… cùng vài thúng rau rừng, bánh ít lá gai, những bao lá thuốc hái trên núi...




  Bãi Làng nằm ngay trung tâm đảo, chỉ với hơn 3.000 dân thuộc 600 hộ, phần lớn làm nghề đánh bắt hải sản và buôn bán nhỏ. Nơi đây không có các dịch vụ du lịch thường thấy, không một bóng xe hơi, không khói bụi và không hàng rong ồn ào chèo kéo. Cuộc sống người dân trên đảo quá đỗi yên bình. Họ thuần hậu, chất phác, đón tiếp du khách rất niềm nở. Nhưng điều ấn tượng nhất là việc những người dân biển luôn ý thức trong việc giữ gìn môi trường. Điều này thể hiện qua việc họ không giăng lưới đánh bắt hải sản cấm, giữ rừng xanh như nếp nhà của mình, không sử dụng túi ni lông, rác được thu gom tập trung sau đó chuyển về đất liền xử lý.
  Tại nhà trưng bày sinh vật biển cù lao Chàm, chúng tôi được ông Phạm Phú Thanh (63 tuổi), người có hơn 11 năm kinh nghiệm làm hướng dẫn viên, giải thích cặn kẽ nhiều thông tin bổ ích. Với giọng kể chân chất, mạch lạc và sống động, ông cho biết, Khu dự trữ sinh quyển cù lao Chàm rộng hơn 5.000 ha với 200 loài san hô thuộc 40 họ, trong đó có 6 họ trong sách Đỏ thế giới. Biển và rừng cù lao Chàm có hệ động thực vật phong phú, đặc biệt là giống cua đá và nguồn tài nguyên yến sào dồi dào…
  Băng qua làng chài vắng vẻ nằm mơ màng dưới những hàng cây cổ thụ và những bờ tường rêu phong cổ kính, chúng tôi ghé thăm âu thuyền - nơi trú ẩn của các thuyền đánh cá địa phương khi gặp thời tiết xấu. Từng dãy thuyền nằm im trong vùng nước trong veo, con đường ven đê bằng phẳng với cánh đồng lúa bát ngát, xa xa là cánh rừng xanh ngút ngàn… Lẩn khuất sau hàng cây là chùa Hải Tạng - ngôi chùa cổ xây dựng cách nay hơn 400 năm. Thành kính lễ Phật, nghe tiếng chuông, tiếng mõ, mùi nhang trầm lẩn khuất, du khách chợt thấy lòng bình yên đến lạ.

  Rời chùa Hải Tạng, chúng tôi háo hức đi sâu vào làng chài bé nhỏ. Đường làng trải bê tông sạch sẽ. Nhà cửa khang trang, tường xây ngói đỏ nối nhau san sát. Đi bộ khoảng 2km, chúng tôi ghé vào nhà cụ bà Nguyễn Thị Muôn, 87 tuổi, người đã gắn bó với nghề đan võng suốt 70 năm qua. Những chiếc võng của bà được làm bằng sợi bện từ vỏ cây ngô đồng, phải đan tỉ mỉ, qua nhiều công đoạn và ròng rã suốt hai tháng rưỡi mới xong một chiếc. Đây là sản phẩm thủ công độc đáo, lại hiếm nên giá bán cũng cao hơn nhiều so với các loại võng đan bằng sợi đay. Hiện nay, mỗi năm bà chỉ làm được vài chiếc võng, mỗi chiếc bà bán được 1,2 triệu đồng.

  Bãi Chồng là bãi tắm đẹp nhất mà du khách không thể bỏ qua khi đến cù lao Chàm. Ẩn hiện bên hàng dừa xanh mướt và bãi cát trắng phau là những hòn đá được thời gian mài mòn, xếp chồng lên nhau. Điểm xuyết trong bức tranh thiên nhiên tuyệt vời ấy là những thuyền thúng dập dềnh theo sóng. Chỉ cần bơi ra xa chừng chục mét, khoác chiếc áo phao, mang ống thở lặn xuống làn nước trong xanh, du khách có thể chiêm ngưỡng rạn san hô rực rỡ với những đàn cá lượn lờ, cùng những con sao biển, sò ốc đủ màu sắc. Cuối buổi, một bữa trưa dân dã sẽ được dọn lên ngay bờ biển với rau rừng luộc, mực tươi hấp gừng, nghêu nướng, cua đá luộc, canh chua..., để lại một trải nghiệm khó quên trong lòng du khách.
 Nguồn : Nguyễn Đức Minh

Thứ Hai, 22 tháng 10, 2012

Bảo tàng sống trong lòng di sản sống

Bảo tàng sống trong lòng di sản sống

Những trăn trở về nghề tơ lụa truyền thống Quảng Nam

Làng Lụa Quảng Nam do Cty Cổ phần Quảng Nam Silk triển khai tại số 28 - Nguyễn Tất Thành, phường Tân An, Hội An
Nơi đây là tụ điểm văn hóa nghề, văn hóa Hội An silk, văn hóa Xứ Quảng silk, văn hóa giao dịch/ứng xử đương đại, văn hóa dịch vụ du lịch - thương mại mới...trên nền tiếp biến văn hóa truyền thống góp phần quan trọng để hưng khởi nghề tơ lụa Quảng Nam.
 * Mời Xem video ( nếu xem bằng điện thoại di động vui lòng xem ở cuối trang )
                           
Khu sản xuất, giới thiệu, trưng bày sản phẩm tơ tằm truyền thống và tham quan du lịch”, 

Làng tơ lụa Quảng Nam silk
sản phẩm tơ lụa 
Những sản phẩm tơ lụa được làm từ làng nghề Quảng Nam
 
Thợ dệt lụa

Khu sản xuất


Bàn thờ ông tổ nghề tơ lụa
trưng bày sản phẩm tơ tằm truyền thống 
 Lụa này là lụa Quảng Nam
Chính tông lụa Quảng, các cô ưa dùng.

 Video dành cho điện thoại và máy tính bảng

 by CaoNhu

Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012

Cái giá quá lớn cho một dự án “lỗi”


Cái giá quá lớn cho một dự án “lỗi”



Được quảng bá và cổ súy bằng nhiều mục tiêu lớn lao nhưng chỉ sau hơn một năm tích nước, dự án thủy điện lớn nhất miền Trung mang tên Sông Tranh 2 lộ nguyên hình là một dự án “lỗi”.
Lạ là một dự án đồ sộ như Sông Tranh 2 nhưng mọi thông tin liên quan đến chi tiết dự án có thể tìm thấy trên các mặt báo hay trang tin lại khá khiêm tốn, nhất là những thông tin liên quan đến câu chuyện đánh giá tác động môi trường từ trước khi triển khai dự án. Sơ suất này khiến không ít người thắc mắc và hoài nghi, liệu những sự cố nghiêm trọng – mà ở đây tạm gọi là “lỗi” – đã và đang diễn ra tại Sông Tranh 2 có nằm trong sự tiên đoán và dự liệu của bản báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án, và nếu có thì biện pháp khắc phục tới đâu, thời gian bao lâu?
Thêm một điểm đáng lưu ý xung quanh câu chuyện thủy điện vốn gây nhiều tranh cãi này là nếu xét Sông Tranh 2 dưới góc độ một bài toán kinh tế thì có thể dễ nhận thấy, cái giá mà xã hội, cụ thể ở đây là người dân Quảng Nam phải trả cho dự án là quá đắt, cái giá ấy không chỉ được tính bằng những con số thể hiện giá trị vật chất mà nó còn bao gồm cả những thiệt hại về mặt tinh thần khó có thể cân đo.
Loại trừ khoản kinh phí khổng lồ mà chủ đầu tư, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) rót cho Sông Tranh 2 thì cái “giá” của dự án còn phải kể tới hàng loạt các chi phí phát sinh khác như chi phí thanh tra, khảo sát, hội họp, di chuyển, diễn tập; chi phí khắc phục, sửa chữa sự cố; chi phí do mất các cơ hội đầu tư vào địa phương; và bao gồm cả một loại chi phí đặc biệt – chi phí cho sự căng thẳng của người dân Quảng Nam trong suốt quá trình xảy ra hiện tượng động đất và rò rỉ thân đập. Việc người dân ban ngày không dám lên rẫy, ban đêm lo sợ phập phồng là minh chứng cho điều này, và chi phí này thì khó có thể đo đếm.
Sẽ còn rất nhiều các loại chi phí phát sinh khác nếu Sông Tranh 2 không sớm tìm được một phương án đảm bảo sự an toàn. Mà muốn như vậy thì bên cạnh nỗ lực của lãnh đạo địa phương và các nhà khoa học, còn cần lắm trách nhiệm, vai trò của chủ đầu tư cũng như sự chung tay giải quyết, xử lý của các cơ quan nhà nước chuyên ngành – đúng như lời GS.TS. Vũ Trọng Hồng từng nhấn mạnh trong một bài báo gần đây – “Nhà nước nên đứng ra xử lý, không thể giao tính mạng người dân cho chủ đầu tư”.
Sông Tranh 2 là dự án trị giá nhiều nghìn tỷ đồng, được xây dựng tại hai xã Trà Đốc, Trà Tân thuộc huyện miền núi Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam trong thời gian 3 năm (2006 – 2009). Đầu năm 2011, dự án bắt đầu công cuộc tích nước nhưng chỉ vài tháng sau, quanh khu vực đập xảy ra hàng loạt các đợt rung chấn liên tiếp với cường độ ngày càng mạnh và khó lường.
Đầu năm 2012, công trình tiếp tục gây hoang mang dư luận với sự cố rò rỉ đập, và sau nhiều tháng khắc phục bằng các biện pháp khá thô sơ, công trình mới tạm xử lý được vấn đề. Dù vậy, người dân Quảng Nam vẫn chưa thể yên tâm bởi trong thân đập, hiện tượng nước rỉ vẫn chưa được xử lý triệt để, trong khi đó hiện tượng rung chấn động đất ngày càng xảy ra với cường độ mạnh và diễn biến phức tạp.
Theo Thiên Nhiên
Đừng phớt lờ cảnh báo
Đập thủy điện Đakrông 3 (Quảng Trị) như một lời cảnh báo đối với độ an nguy của hệ thống thủy điện ở Việt Nam, vốn dày đặc trên sông suối.
Lời cảnh báo đó càng bức bách khi các nhà khoa học liên tục khuyến cáo về nguy cơ mất an toàn của thủy điện Sông Tranh 2 gần đây. Những nỗi bất an, lo lắng của người dân vùng hạ lưu thủy điện Sông Tranh 2 theo đó cũng nhân lên gấp bội lần!
Chỉ từ một sự cố rò rỉ nước ở thân đập, cứ nghĩ rằng sự cố đó sẽ được xử lý triệt để. Ấy thế mà càng ngày càng lộ thêm những thông tin không hay. Nào là chuyện VN chưa có quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật về đập bêtông đầm lăn áp dụng tại Sông Tranh 2. Nào là chuyện động đất liên tiếp xảy ra tại khu vực xây thủy điện. Nào là chuyện gian dối khi lập báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án…
Và mọi chuyện càng phức tạp hơn khi một đề tài nghiên cứu được Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật VN đặt hàng đã chỉ ra rằng động đất cực đại tại khu vực xây dựng Sông Tranh 2 có thể mạnh hơn so với dự báo trước đó; đã có tính toán sai lầm khi vị trí đập nằm trên đứt gãy đang hoạt động…
Không hẳn những thông tin mà các nhà khoa học đưa ra đã thuyết phục được tất cả. Không ai dám nói người này, người kia coi thường tính mạng của người dân nhưng sự coi trọng với bất kỳ ý kiến nào liên quan tới Sông Tranh 2 cũng chỉ tốt hơn cho sự an toàn của chính thủy điện này và quan trọng hơn là để bảo đảm an toàn tuyệt đối đối với sinh mạng người dân hạ lưu.
Chuyện của Sông Tranh 2 kéo dài suốt thời gian qua đã không còn là chuyện riêng của tỉnh Quảng Nam mà đã trở thành đề tài được dư luận hết sức quan tâm. Nó cũng không còn là chuyện của riêng Sông Tranh 2 nữa mà đang trở thành bài học, trở thành lời cảnh báo cho không ít công trình thủy điện khác.
Lời cảnh báo đó ít nhất đã hiện hữu khi đập thủy điện Đakrông 3 (Quảng Trị) bị vỡ mới đây. Chắc chắn khi tích nước ở thời điểm công trình chưa hoàn thiện, những người ra quyết định hẳn cũng khẳng định đập an toàn.
Rất may là sự cố Đakrông 3 chỉ “cuốn trôi” khoảng 20 tỉ đồng chứ không gây thiệt hại về người. Nhưng quy mô thủy điện Sông Tranh 2 lớn hơn, thiệt hại sẽ rất lớn nếu gặp sự cố và vì thế càng không thể phớt lờ những cảnh báo của các nhà khoa học.
KHIẾT HƯNG
Theo Tuổi Trẻ
Nguồn hãy dành thời gian

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2012

Tìm hiểu về tôn giáo - Đạo Tin Lành khác Hồi Giáo và Do Thái Giáo như thế nào?

Đạo Tin Lành khác Hồi Giáo và Do Thái Giáo như thế nào?

 Sự khác biệt giữa Cơ Đốc Giáo (thay vì là Tin Lành) , Hồi Giáo và Do Thái Giáo vì như vậy sẽ dễ dàng cho việc phân tích nguồn gốc giữa ba tôn giáo này. Sau đó, chúng tôi sẽ trình bày ngắn cho bạn sự liên hệ giữa các giáo hội mang tên Cơ Đốc Giáo và sự ra đời của giáo hội Tin Lành từ giáo hội Cơ Đốc Giáo.

Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo và Do Thái Giáo là ba tôn giáo khác nhau ngoại trừ một điểm chung là Hồi Giáo nhận rằng đức Ala mà họ thờ phượng cũng là Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái Giáo và Cơ Đốc Giáo. Trên cơ sở nào mà họ tin điều đó? Kinh Thánh Cựu Ước có ghi chép lại câu chuyện Đức Chúa Trời chọn lựa một người tên là Ápraham và lập giao ước với người đó. Đức Chúa Trời hứa sẽ ban phước cho dòng dõi người đó: "Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước cho ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước." (Sáng Thế Ký 12:2-3). Ápraham rất lớn tuổi vẫn không có con nên vợ ông là Sara khuyên ông gần gũi với một người đầy tớ của bà để sanh con thay bà. Người đầy tớ mang tên Aga đó sanh cho Ápraham một con trai đặt tên là Ích maên (Sáng Thế Ký 16). Tuy nhiên, theo lời hứa của Đức Chúa Trời là Ngài sẽ ban cho Áp ra ham con cháu từ Sara sanh ra. "Đức Chúa Trời bèn phán rằng: Thật vậy, Sa-ra vợ ngươi, sẽ sanh một con trai, rồi ngươi đặt tên là Y-sác. Ta sẽ lập giao ước cùng nó, để làm giao ước đời đời cho dòng dõi của nó." (Sáng Thế Ký 17:19) Điều đó đã được ứng nghiệm khi Ápraham được một trăm tuổi và Sara sanh cho Ápraham một con trai đặt tên là Ysác. Dân Do Thái là dòng dõi của Ápraham từ Ysác còn các dân tộc ở miền Trung Đông là dòng dõi của Ápraham từ Íchmaên. Dân Do Thái đặt lòng tin của mình vào Kinh Thánh Cựu Ước và tin tưởng vào sự chọn lựa đặc biệt của Đức Chúa Trời cho dòng dõi người Do Thái hay người Y-sơ-ra-ên theo nghĩa đen, nghĩa là người Y-sơ-ra-ên theo như chúng ta biết ngày nay. Trên cơ sở đó mà có đạo Do Thái. Do Thái Giáo chỉ tin Kinh Thánh Cựu Ước mà thôi và vẫn đang tuân thủ theo một số luật pháp, nghi thức thờ phượng theo Thánh Kinh Cựu Ước. Các dân tộc Trung Đông nhận mình thờ phượng Đức Chúa Trời của Ápraham nhưng họ là đối địch với người Do Thái vì xuất phát từ hai dòng con khác nhau như đã kể trên. Ngoài ra, sau này Hồi Giáo tin vào sự mặc khải mà họ cho là từ Đức Alla cho một người mang tên là Môhamét để viết ra kinh Coran, là nền tảng cho niềm tin Hồi Giáo.

Còn Cơ Đốc Giáo thì sao? Cơ Đốc Giáo cũng tin một Đức Chúa Trời như Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái Giáo. Tuy nhiên, Cơ Đốc Giáo tin vào Chúa Giêxu, là Đức Chúa Trời thành người xuống thế gian cách đây hơn 2000 năm để chết trên thập tự giá cứu chuộc con người. Do Thái Giáo không tin Chúa Giêxu. Kinh Thánh Cựu Ước có tiên báo nhiều lần về sự đến của một Đấng Mêsi đem sự cứu rỗi đến cho dân Y-sơ-ra-ên. Chúa Giêxu đã đến mang đến một cái nhìn mới, một sự bày tỏ trọn vẹn hơn cho chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho "dân Y-sơ-ra-ên thuộc linh" nghĩa là cho tất cả những người thuộc mọi dân tộc đặt lòng tin vào Chúa Giêxu chớ không chỉ cho dân tộc Y-sơ-ra-ên theo nghĩa đen. Từ Chúa Giêxu và các sứ đồ Ngài đã lập nên hội thánh Cơ Đốc cũng như viết nên phần thứ hai của Kinh Thánh gọi là Thánh Kinh Tân Ước. Kinh Thánh của Cơ Đốc Giáo bao gồm hai phần: Cựu Ước được viết ra trước khi Chúa Giêxu đến thế gian và Tân Ước được viết ra sau khi Chúa Giêxu đến. Trong khi đó, Do Thái Giáo không tin rằng Chúa Giêxu là Đấng Mêsi mà Cựu Ước nói đến. Cho đến ngày nay họ vẫn còn trông đợi Đấng Mêsi đó. 

Về mặt những nghi thức tôn giáo giữa Cơ Đốc Giáo và Do Thái Giáo cũng khác nhau. Dù Cơ Đốc Giáo vâng theo cả Cựu Ước và Tân Ước nhưng có rất nhiều nghi thức, thể lệ về sự thờ phượng, dâng tế lễ, các ngày lễ, đền thờ... trong Cựu Ước được Đức Chúa Trời ban cho dân Y-sơ-ra-ên để dùng làm hình bóng chỉ về sự cứu rỗi trong Chúa Giêxu. Vì vậy, sau khi Chúa Giêxu đến và làm trọn vẹn những nghi thức đó bằng sự hy sinh của chính Ngài thì Cơ Đốc Giáo không còn phải vâng theo những nghi lễ luật lệ trong Cựu Ước chỉ về Chúa Giêxu nữa. "Vì vậy, chớ có ai đoán xét anh em về của ăn uống, hoặc ngày lễ, hoặc ngày mặt trăng mới, hoặc ngày Sa-bát, ấy đều chỉ là bóng của các việc sẽ tới, còn hình thì ở trong Đấng Christ." (Côlôse 2:16-17) Để tham khảo thêm về đề tài này, xin bạn vui lòng tham khảo câu hỏi "Luật Pháp Cựu Ước đối với tín hữu ngày nay" trong mục "Bạn Đọc Hỏi Đáp". Do Thái Giáo vì không tin Chúa Giêxu nên vẫn còn tuân thủ những luật lệ đó cho đến ngày nay. 

Cơ Đốc Giáo phát triển, sau đó tách ra thành hai giáo hội Giáo hội Chính Thống Giáo và Giáo hội Công Giáo (hay Giáo hội Thiên Chúa Giáo). Từ Giáo hội Thiên Chúa Giáo này khoảng thế kỷ 16, một tu sĩ mang tên Martin Luther đứng ra kêu gọi một phong trào Cải Chánh giáo hội, kêu gọi giáo hội đi sát lại với Kinh Thánh và bỏ đi một số những nghi thức tôn giáo không thích hợp với Kinh Thánh. Phong trào đó đã dẫn đến sự thành lập của giáo hội Tin Lành. Muốn tìm hiểu thêm về sự khác biệt giữa Tin Lành và Công Giáo, xin bạn tham khảo câu hỏi "Tin Lành và Thiên Chúa Giáo: Điểm khác biệt - Lịch sử Giáo hội" trong phần "Bạn Đọc Hỏi Đáp" trên website http://tinlanh.com.

Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin được nói thêm rằng chúng ta có thể tìm hiểu về các tôn giáo nhưng không nên quá chú trọng về vấn đề tôn giáo vì không có một tôn giáo (đạo) nào trên thế giới nầy có thể cứu được con người chúng ta, kể cả Cơ Đốc Giáo. Chỉ có Chúa Giêxu là Đức Chúa Trời trở thành người gánh thay tội lỗi và chịu hình phạt vì cớ những tội lỗi của những người tin Ngài mới có thể cứu được con người. Muốn biết về Chúa Giêxu hay Đức Chúa Trời chúng ta có thể đọc trong Kinh Thánh. Quyển Kinh Thánh không phải riêng của đạo nào mà đó là lời của Đức Chúa Trời được chép và sưu tập lại để cho chúng ta đọc biết và làm theo, "Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình" (2Timôthê 3:16), "Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là Ngài Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời" (2Phierơ 1:20-21)