Ludwig
von Mises (1881-1973) - Chủ nghĩa tự do truyền thống
Gans F. Sennhols - Lời nói đầu bản tiếng Nga
Gans F.
Sennhols (1922-2007), Giáo sư kinh tế và trưởng khoa kinh tế của Grove city College, bangPennsylvania, Mĩ
Người xấu
thì không thể trở thành công dân tốt được. Một dân tộc gồm toàn những kẻ lười
biếng và trộm cắp thì không thể trở thành giàu có được; một xã hội gồm toàn
những kẻ nghiện hút và sùng bái thần tượng thì không thể trở thành tự do được.
Khi người dân đánh mất sự tôn trọng đối với sở hữu và tình yêu lao động thì
cũng có nghĩa là họ đã đánh mất thước đo duy nhất của sự trưởng thành và phương
tiện duy nhất của sự tự hoàn thiện. Khi người ta đã hi sinh sự độc lập và lòng
tin vào sức mạnh của chính mình thì cũng là lúc những tên độc tài xuất hiện và tròng
xiếng xích lên đầu lên cổ họ.
Hướng đến
tự do là nguyên tắc căn bản nhất của xã hội. Còn con người thì không thể không
đấu tranh để giành tự do - tự do phát biểu ý kiến, tự do thể hiện và thảo luận
các quan điểm của mình, tự do lập hội và lập đảng, tự do bầu cử và thay đổi
chính phủ, tự do bỏ phiếu cho những người đại diện cho mình, tự do tổ chức đời
sống kinh tế và xã hội theo ý mình - với điều kiện là những việc đó không phá
hoại cuộc sống hoà bình. Sống tự do – nghĩa là làm theo cách của mình, nhận
công việc mà mình cho là phù hợp, tự do mua và bán thành quả lao động của mình.
Là người tự do – nghĩa là không gặp cản trở và khó khăn trong những hoạt động
kinh tế và khát vọng của mình.
Chủ nghĩa
tự do là hệ tư tưởng và cương lĩnh chính trị của những con người tự do. Ít nhất
là người ta đã gọi nó như thế trong một giai đoạn lịch sử tương đối dài và L.
V. Mises cũng gọi như thế trong những tác phẩm tuyệt vời của ông. Chủ nghĩa tự
do là hệ tư tưởng giữ thế thượng phong ở Anh trong giai đoạn giữa cuộc Cách
mạng vĩ đại (1688) và cuộc Cải cách (1867) (cải cách hệ thống bầu cử - ND) và
là một phong trào chính trị và xã hội rộng lớn trên toàn thế giới. Những yêu
cầu đầu tiên của nó là lòng khoan dung tôn giáo và tự do tôn giáo, tôn trọng
hiến pháp và quyền con người, và đến lượt nó, những yêu cầu này đã tạo động lực
mạnh mẽ cho lí thuyết và thực hành tự do kinh tế. Các nhà kinh tế học cổ điển
người Pháp và các nhà kinh tế học theo trường phái tự do người Anh đã đưa ra
định đề kinh tế gọi là laissez-faire, nghĩa là quyền sở hữu không bị cản trở
đối với tư liệu sản xuất và thị trường tự điều tiết, không bị chính trị can
thiệp làm cho rối loạn.
L. V.
Mises cho rằng hệ thống sở hữu tư nhân, thường gọi là chủ nghĩa tư bản, là hệ
thống kinh tế và xã hội khả thi duy nhất. “Chỉ có lựa chọn duy nhất là giữa sở
hữu xã hội và sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mà thôi – ông khẳng định như thế
- Tất cả những hình thức tổ chức xã hội mang tính trung gian đều vô ích và trên
thực tế sẽ là những hình thức tự huỷ diệt. Nếu hiểu thêm rằng chủ nghĩa xã hội
cũng không thể hoạt động được thì không thể không công nhận rằng chủ nghĩa tư
bản, dựa trên sự phân công lao động, là hệ thống tổ chức xã hội khả thi duy
nhất. Kết quả nghiên cứu lí thuyết như thể không phải là điều có thể làm cho
nhà sử học và triết gia trong lĩnh vực lịch sử ngạc nhiên. Nếu chủ nghĩa tư bản
có thể đứng vững được, mặc cho sự thù địch từ phía chính phủ cũng như từ phía
dân chúng, nếu như nó không phải nhường chỗ cho những hình thức hợp tác xã hội
được lòng các lí thuyết gia và những người hoạt động trên thực tế thì đấy chính
là vì những hình thức tổ chức xã hội khác đều bất khả thi”
Không phụ
thuộc vào kiến thức của ta về thành tựu của chủ nghĩa tư bản, chúng ta cũng
không thể không thán phục những đặc điểm đã vượt qua được thử thách của thời
gian và vẫn không tàn úa của nó. Các giáo sư đã lên án nó vì cho rằng nó tạo ra
hiện tượng người bóc lột người, nó sinh ra nạn độc quyền và nhóm độc quyền, nạn
thất nghiệp và tổn thất ngày càng gia tăng. Nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn đứng vững.
Các nhà đạo đức học và các cố đạo lên án nó về lĩnh vực đạo đức và văn hoá.
Nhưng, mặc cho những lời nguyền rủa, chủ nghĩa tư bản vẫn sống. Các chính trị
gia tiếp tục bàn tán về nhu cầu cấp bách của lĩnh vực công; nhưng kinh tế tư
nhân tiếp tục tồn tại, mặc cho những cản trở từ khu vực công. Những đặc trưng
chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tiếp tục tồn tại ngay trong những khu
vực tăm tối nhất của thế giới, mặc cho những đạo luật mà các nhà làm luật có
thể đưa ra nhằm chống lại nó, mặc cho những khó khăn mà các chính phủ có thể
tạo ra cho các doanh nhân. Hay là sở hữu tư nhân và trật tự xã hội dựa trên sở
hữu tư nhân đã ăn sâu bén rẽ vào ngay trong bản chất của con người?
Thật khó
tìm được ở đâu đó trên thế giới này hệ thống tư bản chủ nghĩa không chịu bất kì
cản trở nào. Các chính phủ can thiệp vào hầu như bất kì biểu hiện nào của đời
sống kinh tế. Họ lập ra những luật thuế ăn cướp đối với quá trình sản xuất và
phân phối, nhưng các doanh nhân và các nhà tư bản vẫn làm ra rất nhiều hàng hoá
và cung cấp cho ta đủ loại dịch vụ. Các chính phủ điều tiết và hạn chế sức sản
xuất, nhưng trật tự, dựa trên sở hữu tư nhân, dù đã bị bóp méo và ngăn chặn,
vẫn tiếp tục tồn tại trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Chính phủ đặt ra mức
lương và can thiệp vào cơ cấu giá cả, nhưng hệ thống thị trường vẫn tiếp tục
tồn tại trên thị trường chợ đen và hoạt động bất hợp pháp. Chính phủ tạo ra lạm
phát và nới lỏng tín dụng và sử dụng luật pháp để điều tiết các phương tiện
thanh toán, nhưng sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn tiếp tục tồn tại trong lúc hệ
thống tiền tệ suy sụp. Chính phủ ban cho các tổ chức công đoàn những đặc quyền
đặc lợi về mặt kinh tế và bất khả tác động về mặt pháp luật, nhưng cuối cùng
thì sản xuất vẫn tiếp tục phát triển. Chính phủ dính líu vào những cuộc chiến
tranh, nhưng khi những cuộc chém giết chấm dứt và chính phủ không còn gì để kế
hoạch hoá, để phân phối bằng tem phiếu và bằng vũ lực nữa thì chủ nghĩa tư bản
lại hồi sinh. Chủ nghĩa tư bản là câu chuyện thần kì của quá trình tái thiết và
phát triển.
Trong
phần lớn các khu vực trên thế giới, chủ nghĩa tư bản đã trở thành nơi trú ngụ
cuối cùng. Khi chế độ cộng sản chỉ mang đến đói nghèo, khi tất cả những biện
pháp áp bức về mặt chính trị đều thất bại và khi những bộ óc của các chính trị
gia không còn phát minh ra những điều ngu xuẩn về mặt kinh tế nữa, khi công an
mệt mỏi, không còn điều tiết kinh tế nữa và khi các toà án bị tê liệt vì quá
nhiều tội phạm kinh tế thì đấy chính là lúc xuất hiện hệ thống tư hữu tư nhân.
Hệ thống này không cần phải có kế hoạch chính trị, không cần luật pháp kinh tế,
không cần công an kinh tế, nó chỉ cần tự do.
Chủ nghĩa
tư bản lại một lần nữa xuất hiện ở châu Âu vào đầu những năm 1980, tức là một
thời gian dài trước khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ. Sau khi chiếm được quyền
lực, ở đâu chủ nghĩa xã hội cũng chỉ để lại những vết nhơ. Tình hình kinh tế
lạc hậu, thậm chí xấu đi trong toàn khối xã hội chủ nghĩa, trong khi chủ nghĩa
tư bản mang đến sự thịnh vượng và giàu có cho phần còn lại của thế giới. Ngôi
sao của chủ nghĩa tư bản đang vươn lên trên bầu trời châu Á, mang đến hi vọng
cho những con người nghèo đói và bị áp bức ở châu lục này.
Ánh sáng
của chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào cả Liên Xô trong suốt giai đoạn hậu chiến.
Dù bức màn sắt có mạnh mẽ và kín đến mức nào thì nó cũng không thế chống lại
được sức mạnh của ý tưởng. Thông qua tất cả các kênh thông tin, những ý tưởng
này đã xuyên qua được bức màn sắt và cắm được những cái rễ chắc chắn vào trái
tim và khối óc của rất nhiều người. Hàng triệu nạn nhân của chế độ phi nhân
cộng sản đã nhận thức được quyền tự do của con người và hệ thống tư hữu. Họ đã
trở thành những người “theo trường phái tự do”, thành những người khao khát tự
do và hoà bình - những nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa tự do. Sự tan rã một
cách hoà bình đế chế Liên Xô là bằng chứng rõ ràng về sức mạnh của tư tưởng tự
do.
Nhận thức
chung của mọi người về sự thịnh vượng rõ ràng và ngày càng gia tăng của các
nước có nền kinh tế thị trường là tác nhân quan trọng nhất của quá trình thay
đổi. Đến giữa những năm 80 của thế kỉ trước thì ngay cả những kẻ cầm quyền đui
mù nhất cũng không thể không thấy rằng khoảng cách giữa các nước có nền kinh tế
thị trường và các nước có nền kinh tế kế hoạch hoá chỉ huy, và cùng với nó là
điều kiện sống của rất nhiều người, đang ngày càng gia tăng. Trong những năm
70, lần đầu tiên các nền kinh tế thị trường ở châu Á gia tăng được gấp đôi sản
lượng, và trong những năm 80 là lần gia tăng thứ hai.
Ở nước
Nga, mặc cho sự chống cự của những người xã hội chủ nghĩa thế hệ cũ, những cuộc
cải cách chính trị và kinh tế đang được tiến hành một các khẩn trương. Sự ủng
hộ của dân chúng đối với tiến trình giải tư chính là động lực của nó. Chính
sách giải tư nhận được sự ủng hộ ngày càng gia tăng của dân chúng cũng như
chính quyền, quay trở lại quá khứ là việc làm bất khả thi.
Quyền sở
hữu tư nhân là cội rễ của bất kì hệ thống tư bản chủ nghĩa nào. Ở nước Nga nó
mới chỉ tạo được những mầm cây đầu tiên. Mong rằng việc xuất bản tác phẩm vĩ
đại này sẽ giúp che chở và củng cố những mầm cây ban đầu đó.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn bạn đã góp ý, xin chân thành cảm ơn !