Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2013

Nghèo đa chiều - Tiếp cận đúng cách hoặc ném tiền qua cửa sổ

Nghĩ đến nghèo, chắc hẳn mỗi chúng ta nghĩ đến đầu tiên sự thiếu thốn về vật chất. Và đó là cách nghĩ phổ biến. Chẳng thế mà định nghĩa nghèo theo tiêu chuẩn quốc tế cũng gắn nghèo với thu nhập dưới 1 đô la một ngày. Đúng là đánh giá nghèo theo tiêu chuẩn thu nhập thì dễ cho người tính và cũng dễ cho người đọc, vì nó là con số định lượng. Nếu nghĩ nghèo dưới góc độ kinh tế, tài chính, thì phải chăng để xoá nghèo, chúng ta chỉ việc tập trung nâng cao cái vốn kinh tế, tài chính, làm cho người nghèo tăng trưởng về thu nhập?
Bạn sẽ sống thế nào nếu đây là nhà của mình?
Bạn sẽ sống thế nào nếu đây là nhà của mình?
Câu hỏi đó cứ đeo đuổi tôi từ những ngày đầu tiên chập chững làm cán bộ phát triển từ ở những huyện vùng cao như Quảng Ngãi, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Ninh Thuận, tới những vùng đồng bằng như Quảng Ninh, Hải Dương và cả những thành phố như Hồ Chí Minh hay Hải Phòng. Đi đâu gặp người nghèo cũng thấy dự án mình làm là hạt muối trong biển.
Có lẽ nhiều người đã và đang làm cán bộ phát triển cũng sẽ băn khoăn như tôi: Làm thế nào để xoá đói, giảm nghèo? Đối với tôi, để trả lời câu hỏi đó, trước hết phải suy nghĩ lại câu hỏi: Nghèo là gì? – câu hỏi tưởng như chúng ta đã rất thông thạo rồi. Cách tiếp cậnnghèo đa chiều (multidimensional poverty) là một cách để trả lời câu hỏi đó.
Chưa có định nghĩa thống nhất về khái niệm này, nhưng nó có đặc tính cơ bản: không nhìn nghèo với con mắt một chiều, mà nhiều chiều; không xem nghèo là một hiện tượng đơn lẻ, mà là hiện tương đa khía cạnh, phức tạp, chồng chéo, bao gồm nhiều yếu tố khác nhau. Tức là nó tiếp cận nghèo một cách toàn diện, chứ không phải chỉ tập trung vào một vài khía cạnh của nghèo, ví dụ thu nhập hay tài sản. Theo đó, nghèo đa chiều là sự thiếu hụt tổng hợp của hai hay nhiều loại vốn khác nhau của một người hoặc nhóm người: vốn sức khoẻ, vốn tâm lý, vốn thông tin, vốn con người, vốn xã hội và vốn văn hoá bên cạnh vốn kinh tế. Ngoài vốn kinh tế, ta sẽ lần lượt đi vào từng loại vốn còn lại để thấy rõ được đặc điểm của chúng.
Tác giả chụp cùng những trẻ em (hầu hết suy dinh dưỡng) ở Tây Trà, Quảng Ngãi
Tác giả chụp cùng những trẻ em (hầu hết suy dinh dưỡng) ở Tây Trà, Quảng Ngãi

Vốn sức khoẻ

Người ta thường nói: ‘Sức khoẻ là vàng’, ‘Sức khoẻ là mẹ thành công’. Chân lý rút ra ở đây là sức khoẻ là yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự thành công của mỗi con người. Nếu không có sức khoẻ, thì con người sẽ không thể lao động, không thể sáng tạo để có thể làm giàu được. Hiện nay nhiều tổ chức đã đo lường chỉ số suy dinh dưỡng của trẻ em để xem xét vấn đề nghèo.
Liệu có thể no với bữa cơm này?
Liệu có thể no với bữa cơm này?
Thực tế, việc suy dinh dưỡng và bệnh tật ở trẻ em đã ảnh hưởng xấu tới gia đình. Vì cha mẹ các em vừa phải bươn chải mưu sinh, vừa phải dành để chăm sóc con cái. Chi phí khám chữa bệnh và thuốc thang chiếm một phần rất lớn nhu cầu chi tiêu của gia đình. Bên cạnh đó, điều này cũng ảnh hưởng lớn tới sức khoẻ của thế hệ tương lai của một cộng đồng. Một cộng đồng yếu kém về sức khoẻ thì nguy cơ nghèo là rất cao. Do vậy, sức khoẻ kém, yếu cũng chính là nghèo.

Vốn tâm lý

Tâm lý cũng là một loại vốn. Điều này có vẻ mới lạ. Chúng ta thường nghĩ vốn là tiền bạc, là vật chất, là đất đai. Nhưng không ngờ rằng tâm lý là một loại vốn. Chính những chuyên gia của Ngân hàng Thế giới như Alsop và đồng sự (2005) cũng công nhận tâm lý đóng vai trò rất quan trọng trong “khả năng nhận biết thay đổi”. Thiếu hụt tâm lý, dẫn tới đánh mất sự tự tin, khả năng dám tham gia, dám thay đổi những cái lạc hậu, hay khả năng chuyển đổi những sự lựa chọn của mình thành hiện thực. Điều này đặc biệt đúng với các nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người già, người khuyết tật hoặc người dân tộc thiểu số.
Người phụ nữ làm việc nhà - Huyện Minh Long
Người phụ nữ làm việc nhà – Huyện Minh Long
Nhiều nghiên cứu cho thấy tâm lý e ngại và nghĩ mình thua kém nam giới khiến cho phụ nữ ngăn mình tham gia các hoạt động xoá đói giảm nghèo. Hậu quả là các hộ gia đình có nữ chủ hộ thường có thu nhập thấp hơn so với hộ gia đình có nam giới là chủ hộ. Một ví dụ khác, phân tích của Ngân hàng Thế giới cho thấy, khi tự đánh giá về mình, có tới 47% người dân tộc thiểu số tham gia đánh giá rằng nhóm dân tộc của mình lạc hậu, trong khi tỷ lệ này ở người Kinh chỉ là 16%. Mức độ tự ty thậm chí khiến người dân tộc thiểu số không dám đòi hỏi giá cao khi buôn bán.

Vốn thông tin

Cũng như vốn tâm lý, thông tin thường không được xem là một tài sản. Nhưng đó là một sai lầm. Chắc các bạn biết câu: Thông tin là sức mạnh. Nó càng quan trọng trong thời đại công nghệ thông tin, nơi mà thông tin được bán như các hàng hoá khác. Vốn thông tin ở một người/ nhóm người chính là ở khả năng được nghe/ biết thông tin từ các kênh truyền thông như radio, loa phát thanh của xã, huyện, tờ thông tin, ti vi, mạng Internet. Có được thông tin chính là có được khả năng để hiểu và tham gia vào chương trình/ dự án.
Cũng không đáng ngạc nhiên rằng mức độ sở hữu thông tin của các nhóm dân tộc thiểu số thường rất thấp. Điều này trước hết xuất phát từ khu vực cư trú. Hầu hết các dân tộc thiểu số đều ở các vùng núi cao, thuộc miền sâu, miền xa, diện tích rộng nhưng giao thông khó đi lại. Ở đó khó xây dựng các công trình, đặc biệt điện, đường, trường, trạm. Thiếu những cơ sở hạ tầng cơ bản, các dân tộc miền núi dường như trở nên bị tách biệt và thiếu thốn thông tin đủ mặt. Một số ví dụ rõ ràng là chính vì ít cập nhật thông tin về tín dụng và dịch vụ tài chính mà người dân tộc thiểu số thường không tham gia vay vốn chính thức từ ngân hàng mà vay các loại vốn phi chính thức với lãi suất cao (tín dụng); thường buôn bán các sản phẩm nông nghiệp giá rẻ (tiếp cận thị trường); vì không nhận thức được tầm quan trọng về chứng nhận đất đai dẫn tới bán đất đai, sang nhượng sổ đỏ dẫn tới mất đất (vấn đề đất đai, nông nghiệp).

Vốn con người

Vốn con người (human capital) là một nguồn vốn đạt được trong quá trình giáo dục và các hoạt động trong cuộc sống. Các giá trị, chuẩn mực của xã hội, các mô hình ứng xử, các thói quen tốt, các kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng để thực hiện các hoạt động kinh tế là những nội dung cực kỳ quan trọng mà vốn này mang lại cho con người. Một con người thiếu giáo dục là thiếu hụt đi nền tảng để thích ứng được với cuộc sống của xã hội.
Hầu như các dân tộc thiểu số là đối tượng thiếu hụt vốn con người. Báo cáo Phân tích Xã hội Quốc gia cho thấy người dân tộc thiểu số là những người có khả năng tiếp cận giáo dục rất thấp. Chính vì vậy, tỷ lệ mù chữ cao xuất hiện nhiều ở nhóm cộng đồng này. Việc này cản trở to lớn đến khả năng tương tác của họ trong việc tiếp cận và chia sẻ thông tin, hạn chế tham gia buôn bán ở chợ vì không hiểu biết giá cả, chính sách v.v. Đối với người nghèo nói chung, thì dân trí của họ đa phần là thấp hơn mức trung bình. Do người dân có dân trí thấp mà họ không hiểu rõ được vấn đề của việc tham gia các dự án, nên họ ít quan tâm đến các quyền được biết, được bàn và quyết định, cũng như lồng ghép quyền lợi của mình vào các dự án.

Vốn xã hội

Chúng ta hẳn biết câu: ‘Một người làm quan, cả họ được nhờ’, hoặc ‘Bán anh em xa mua láng giềng gần’. Đó là những câu nói chỉ về vốn xã hội, cái chúng ta có được mạng lưới xã hội của chúng ta, từ gia đình, tới bạn bè, đồng nghiệp, thậm chí từ người lạ. Theo Robert Putnam (1995) một nhà xã hội học Mỹ, vốn xã hội chính là các mạng lưới xã hội, sự tin tưởng trong các mối quan hệ xã hội, cho phép chúng ta huy động sự giúp đỡ. Như vậy, vốn xã hội là khả năng huy động từ mối quan hệ những sự hỗ trợ (từ tinh thần, tình cảm tới vật chất, tài sản, tài chính hay công sức lao động v.v.).
Chúng ta ít nhiều đã đi tới các xã vùng cao và biết rằng, ở đó không chỉ có dân tộc thiểu số. Cũng có các nhóm người Kinh lên đó sinh sống. Nhưng tại sao người Kinh luôn nổi bật, luôn giàu có hơn? Câu trả lời có thể rút ra từ vốn xã hội khi di cư, vì di cư làm cho chúng ta phải xây dựng lại mạng lưới quan hệ (do đó là vốn xã hội) của mình. Với kinh nghiệm và thế mạnh của mình, những người Kinh có khả năng sử dụng tốt mạng lưới họ hàng, đồng hương để tiếp cận thông tin, tài chính và quyền lực (với các quan chức địa phương) nhằm nhanh chóng ổn định cuộc sống sau di cư và phát triển kinh tế. Trong khi đó, mạng lưới xã hội của các dân tộc thiểu số di cư lại yếu, co cụm và ít có khả năng sản sinh ra vốn xã hội làm họ thích ứng kém đối với môi trường sau di cư. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (2009) cũng cho thấy người dân tộc thiểu số chỉ hầu như quanh quẩn ở làng của họ, ít khi tới các khu vực thị trấn, chứ chưa nói tới các trung tâm thành phố lớn. Chính điều đó khiến quan hệ xã hội của họ hạn hẹp, vốn xã hội ít ỏi.

Vốn văn hoá

Vốn văn hóa hay tài sản văn hóa (cultural capital/assets) liên quan đến các tập tục, phong tục, tập quán tạo cho các cá nhân/ nhóm/ cộng đồng một phong cách sống riêng, một cách thức ứng xử và giải quyết vấn đề riêng.
Một trong những ví dụ của vốn văn hoá chính là về sử dụng ngôn ngữ trong dân tộc thiểu số. Chúng ta ai đã từng lên Sa Pa, Lào Cai thì sẽ thấy người dân tộc ở đó họ sử dụng tiếng Anh bồi khá tốt. Chính điều đó là một công cụ để giao tiếp và buôn bán tốt hơn đối với khách du lịch. Tuy vậy, nhiều nơi, dân tộc thiểu số vì thiếu hiểu biết tiếng Việt cho nên họ rất ngại tiếp cận giáo dục, từ đó họ trở thành nhóm cách biệt với cộng đồng dân tộc đa số. Trong một ví dụ khác, một đặc tính văn hóa trở thành một rào cản đối với người dân tộc thiểu số, làm cho họ kém năng động và ngại buôn bán hơn, đó là quan niệm nhân nhượng cộng đồng. Quan niệm này thể hiện ở chỗ, người dân tộc thiểu số rất thường cho vay mượn, mua chịu, xin xỏ hoặc những yêu cầu khác từ họ hàng và láng giềng của mình. Chính vì xem đó như một nghĩa vụ xã hội mà người dân tộc thiểu số buôn đắt, bán chặt như nhiều người Kinh.

Lời kết

Tóm lại, nghèo đa chiều cho chúng ta cơ hội để nhìn nhận hiện tượng nghèo một cách đa chiều và toàn diện hơn. Từ đây chúng ta biết rằng việc thiếu hụt một trong các loại vốn trên sẽ dễ dẫn tới việc thiếu hụt các loại vốn khác, đặc biệt là vốn kinh tế. Cách tiếp cận này cũng giúp chúng ta có cái nhìn tốt hơn đối với biện pháp giảm nghèo. Thay vì các dự án chỉ chú tâm nâng cao thu nhập, chúng ta cần các dự án có những tác động tổng hợp lên hai hay nhiều loại vốn cùng một lúc. Sự thay đổi về thu nhập đôi khi không phải đến từ những tác động lên việc làm, mà từ những ảnh hưởng lên sự tăng trưởng về chất lượng giáo dục, năng lực tâm lý, khả năng thu thập thông tin, sự tăng cường sức khoẻ, cải thiện mối quan hệ xã hội và thay đổi các tập quán, quan niệm văn hoá lạc hậu.
Trung Kiên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm ơn bạn đã góp ý, xin chân thành cảm ơn !